Xã hội cùng dân chúng lâm vào cảnh thảm thương đọa đày – chẳng khác gì bản Tuyên Ngôn Độc Lập của Hồ Chí Minh cách đây 72 năm đã mô tả về thực dân Pháp: “chúng bóc lột dân ta đến tận xương tủy.”
Người dân ở những tỉnh vùng sâu vùng xa và đầy rẫy đói nghèo sẽ khốn khổ hơn vì tăng thuế. (Hình minh họa: Getty Images) |
Vẫn “cắm mặt” tăng thuế!
Bất chấp rất nhiều phản ứng của người dân, doanh nghiệp, giới chuyên gia trong thời gian qua về âm mưu tăng thuế giá trị gia tăng (VAT) từ 10% lên 12%, điều quái gở và cực kỳ tàn nhẫn là Bộ Tài Chính vẫn khăng khăng bảo lưu đề xuất này.
Mới vào đầu năm 2018, Bộ Tài Chính đã chuyển Bộ Tư Pháp thẩm định dự thảo luật sửa đổi các luật về thuế trước khi báo cáo thủ tướng xem xét trình Quốc Hội vào năm 2018. Trong dự thảo mới vẫn lồ lộ hiện hình đề xuất tăng thuế VAT từ 10% lên 12% và tăng theo lộ trình, mỗi năm tăng thêm 1% cho tới khi bằng 12%.
Còn nhớ vào đầu năm 2017, trong lúc nền kinh tế Việt Nam lao vào năm suy thoái thứ 9 liên tiếp khiến rất nhiều gia đình phải thắt lưng buộc bụng bởi thu nhập ngày càng eo hẹp và đồng tiền ngày càng mất giá, Bộ Tài Chính lại tìm cách “móc túi” tuyệt đại đa số công dân và người nghèo bằng một bản dự thảo sửa đổi Luật Thuế Bảo Vệ Môi Trường với 8,000 đồng đánh vào 1 lít xăng. Một thứ trưởng của bộ này là Đỗ Hoàng Anh Tuấn còn trơ tráo đến mức tuyên bố về “thuế bảo vệ môi trường” là “được lòng dân hơn”!
Vào giữa năm 2017, khi tung ra đề xuất tăng thuế VAT, hầu hết các lý do của Bộ Tài Chính nêu ra như “thuế VAT ở Việt Nam còn thấp so với các nước,” tăng thuế VAT để bảo đảm an toàn tài chính,” thậm chí “tăng thuế VAT để tạo công bằng” đã bị dư luận và giới chuyên gia mổ xẻ và phản bác dữ dội, cho đó chỉ là những ngụy biện cho một nền ngân sách “hành là chính,” đang mau chóng rỗng túi và do đó phải “thu cùng diệt tận”…
Nhiều phân tích đã làm rõ rằng ngay mặt bằng thuế VAT hiện thời (khi chưa tăng) của Việt Nam đã thuộc loại cao nhất thế giới, còn “an toàn tài chính” thực chất chỉ là bảo đảm cho ngân sách có đủ tiền để trả cho đội ngũ 2,8 triệu công chức mà trong đó có ít nhất “30% không làm ghì cả mà vẫn lãnh lương,” và tất nhiên không thể không nói tới việc chính phủ và Bộ Tài Chính chỉ “cắm mặt” nghĩ đến việc tăng thu mà hoàn toàn chẳng đoái hoài đến việc giảm chi, đặc biệt là mục chi thường xuyên…
Còn vào đầu năm 2018, Bộ Tài Chính viện ra lý do gì để tăng thuế VAT?
Hụt thu FTA!
Theo giải thích của cơ quan chuyên tìm cách “móc túi” dân này, tăng thuế trong nước là nhằm bù đắp hụt do cắt giảm thuế theo các cam kết mà Việt Nam đã ký trước đó.
Theo Bộ Tài Chính: “hiện nay Việt Nam đã ký kết 10 Hiệp Định Thương Mại Tự Do (FTA) và sẽ có hiệu lực trong giai đoạn từ nay tới năm 2020. Việc thực hiện các cam kết FTA khiến hàng rào thuế quan bị dỡ bỏ, làm nguồn thu ngân sách nhà nước bị ảnh hưởng. Cụ thể, ngân sách nhà nước sẽ hụt thu do giảm thuế nhập khẩu trong năm 2018 khoảng 30,150 tỷ đồng; năm 2019 hụt thu khoảng 36,340 tỷ đồng; năm 2020 hụt thu 43,965 tỷ đồng. Ngoài ra, thuế suất bình quân của toàn bộ hàng hóa nhập khẩu cũng giảm dần hằng năm theo lộ trình: Năm 2015 giảm còn bình quân 4.75%, năm 2016 còn 3.74%, và năm 2018 giảm còn 2.98%.”
Hàng loạt dấu hỏi lớn nổi lên là vì sao trước đây khi ồn ào khoe thành tích chạy theo phong trào ký FTA, Bộ Tài Chính – một thành viên chủ chốt trong hoạt động đàm phán với các đối tác nước ngoài – lại chỉ thuần túy vẽ vời những lợi ích mà các FTA sẽ mang lại, chứ không hề đề cập – ít nhất trên phương diện công khai – về thủ đoạn sẽ “hồi tố” vào chính người dân của mình bằng cách tróc thuế đầu dân một khi các FTA không mang lại hiệu quả như mong muốn? Vì sao chỉ đến lúc kết quả thực hiện các FTA bị “đổ nợ,” Bộ Tài Chính mới vội vã tham mưu cho chính thể độc đảng đè đầu dân thu thuế để “bù đắp khó khăn ngân sách”? Vậy với vai trò là cơ quan tham mưu chủ chốt, Bộ Tài Chính có vô trách nhiệm đến mức đã góp phần và hiện thực “đổ nợ” ấy?
Trong thực tế đến cuối năm 2016, Việt Nam đã ký kết, thực thi và đang đàm phán 16 FTA. Trong số này, có 10 FTA đã thực thi (sáu FTA trong số này với tư cách là thành viên ASEAN, bốn FTA còn lại với Chile, Nhật Bản, Hàn Quốc, và EEC). Hai FTA đã kết thúc đàm phán là TPP và Hiệp Định Thương Mại Tự Do giữa Việt Nam và EU (EVFTA). Bốn FTA đang đàm phán là Hiệp Định Đối Tác Kinh Tế Toàn Diện Khu Vực (RCEP), FTA ASEAN – Hồng Kông, FTA với Israel và với Khối Thương Mại Tự Do Châu Âu (EFTA).
Trong đó, chỉ có hai FTA của Việt Nam với Mỹ và Châu Âu là còn xuất siêu được – lần lượt là $25 tỷ và $20 tỷ mỗi năm. Còn thặng dư xuất siêu với Nhật bằng 0, trong khi ngay cả Hàn Quốc, tưởng là “dễ ăn,” nhưng Việt Nam lại phải nhập siêu đến $20 tỷ vào năm 2016 và có thể đến $25 tỷ vào năm 2017.
Còn với Trung Quốc thì khỏi nói: con số nhập siêu chính ngạch lên đến $20 – $30 tỷ/năm, chưa kể phần tiểu ngạch khoảng $20 tỷ nữa, tổng cộng đến $40 – $50 tỷ nhập siêu mỗi năm dành cho Việt Nam.
Thói quen phụ thuộc nhập khẩu từ Trung Quốc đã trở nên quá khó bỏ. Nó không chỉ cột chặt giới doanh nghiệp nhỏ và vừa, mà còn xiềng xích giới quan chức “ăn dầy” của Việt Nam – những người có thẩm quyền ký hạn ngạch nhập hàng từ Trung Quốc. Tình thế càng trở nên nên khốn quẫn khi tại một số cuộc hội thảo về đầu tư, người ta cho biết giới doanh nghiệp Trung Quốc có thói quen chi dưới gầm bàn “thoáng nhất”!
Không cần nhắc lại, ai cũng biết giới quan chức Việt thuộc loại “ăn đủ” nhất trên thế giới.
Trong lịch sử buôn bán hai chiều với các quốc gia trên thế giới, Việt Nam lại bị phụ thuộc vào Trung Quốc nhiều nhất. Từ nhiều năm qua, Việt Nam đã bị biến thành thị trường nhập khẩu hàng hóa lớn nhất của Trung Quốc, chiếm tỉ trọng khoảng 20% tổng kim ngạch xuất nhập khẩu Việt Nam.
Phải chăng Bộ Tài Chính, cùng với Bộ Công Thương và một số bộ ngành và tỉnh thành khác, đã “ăn đủ” với doanh nghiệp Trung Quốc đến mức khiến FTA của Việt Nam với “người đồng chí tốt” này rơi vào thảm cảnh nhập siêu kinh hoàng như thế?
Bắt dân uống “thuốc độc”!
Nếu Bộ Trưởng Y Tế Nguyễn Thị Kim Tiến đang bị dư luận xã hội cáo buộc về liên đới trách nhiệm với vụ nhập hàng triệu viên thuốc ung thư giả mà có thể đã khiến nhiều bệnh nhân ung thư phải chết đến hai lần, hậu quả mà Bộ Trưởng Tài Chính Đinh Tiến Dũng gây ra khi đề xuất tăng thuế VAT (giá trị gia tăng) từ 10% lên 12% từ năm 2019 cũng có thể gây tác hại ghê gớm không kém tính độc dược của thuốc ung thư giả.
Mưu đồ tăng thuế VAT lại xảy ra trong bối cảnh dân tình Việt ngày càng khốn khó trong một nền kinh tế đã rơi vào thảm trạng suy thoái đến năm thứ 10 liên tiếp, một xã hội bị acid đậm đặc bởi căn bệnh tham nhũng không còn cách gì cứu chữa. Thuế chồng thuế, chồng lên đôi vai gày guộc của người nghèo. Hàng triệu bệnh nhân, vốn đã bị các bệnh viện “bóp cổ bóp họng” và “không có tiền thì chỉ có chết,” sẽ phải nuốt nước mắt vào lòng với biểu viện phí chất cao như núi…
Thói vô tâm, vô cảm và vô trách nhiệm của giới quan chức Bộ Tài Chính đã tích tụ từ nhiều năm qua và mang tính hệ thống.
Ngay trước mưu đồ tăng thuế VAT, Bộ Tài Chính đã tham mưu cho chính quyền âm thầm, hoặc lén lút tăng thuế sử dụng đất phi nông nghiệp gấp 3-4 lần mà không thông báo trước cho dân.
Trong cơ cấu thu ngân sách quốc gia, tiền thuế sử dụng đất chiếm khoảng 9%, tương đương khoảng 100 ngàn tỷ đồng. Nếu đồng loạt tăng thuế sử dụng đất ở các tỉnh thành, ngân sách sẽ có thể “móc túi” dân gấp ít ra vài ba lần con số trăm ngàn tỷ đó.
Trong hai năm 2016 và 2017, chính phủ được tuyên xưng “liêm khiết, kiến tạo và hành động” của Thủ Tướng Nguyễn Xuân Phúc đã phải “mộng du” với những di họa tài chính khủng khiếp để lại từ thời “phá chưa từng có” của thủ tướng đời trước là Nguyễn Tấn Dũng: Tháng Ba năm 2016, một báo cáo của chính phủ gửi Quốc Hội thừa nhận: “Tổng thu ngân sách nhà nước không đủ bảo đảm nguồn chi thường xuyên và trả nợ. Toàn bộ chi đầu tư đều phải dựa vào nguồn vay nợ của chính phủ. Nợ công tăng, áp lực trả nợ lớn.”
Cũng là lúc mà số thu hơn một triệu tỷ đồng của ngân sách không thể nào bù đắp cho số chi còn hơn hẳn thế, hàng chục tỷ đô la phải trả nợ nước ngoài hàng năm, cùng cơn gào thét “đòi ăn” theo thói ăn quen nhịn không được của 63 “bao tử” ở các tỉnh thành…
“Chúng bóc lột dân ta đến tận xương tủy”
Tăng giá và thuế má là một trong những biểu đạt cực đoan nhất trong giai đoạn cuối của một cơ chế cưỡng bức và cưỡng đoạt. Sự tồn vong của đảng cầm quyền cũng lệ thuộc không khác hơn, nếu xét trên phương diện những thiệt hại về chính trị trên trường quốc tế và ngay trong lòng dân.
Xã hội cùng dân chúng lâm vào cảnh thảm thương đọa đày – chẳng khác gì bản Tuyên Ngôn Độc Lập của Hồ Chí Minh cách đây 72 năm đã mô tả về thực dân Pháp: “chúng bóc lột dân ta đến tận xương tủy.”
Một cán bộ thu thuế ở Sài Gòn nói toạc ra “Cứ thu thế này thì chẳng mấy chốc dân sẽ bùng.”
Nếu dân Sài Gòn mà còn “bùng,” dân các tỉnh khác, đặc biệt những tỉnh vùng sâu vùng xa và đầy rẫy đói nghèo – sẽ ra sao?
Phản ánh từ nhiều người dân ở các tỉnh đói nghèo ấy đều cho biết: “Túi chẳng còn gì để nộp thuế nữa. Nếu nhà nước cứ tróc nã thì dân chỉ còn cách hoặc trốn đóng hoặc phản ứng tự vệ thôi.”
Phạm Chí Dũng
Người Việt
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét