|
Sự kiện lịch sử thứ nhất là 50 năm biến cố Tết Mậu Thân 1968 mà nhà nước này bao lâu nay vẫn trí trá gọi tên là “Cuộc tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân 1968”. Đã nửa thế kỷ trôi qua, bao nhiêu tư liệu, thông tin của thời đại internet đã chứng minh cuộc tổng tấn công đó thực sự là thành công hay thất bại về mặt quân sự, mục tiêu, cái giá phải trả trên sinh mạng con người lẫn các cơ sở vật chất là quá đắt ra sao. Nghiêm trọng hơn, biến cố Mậu Thân luôn luôn để lại một ký ức kinh hoàng của một trong những trang sử đẫm máu nhất, man rợ nhất về cuộc thảm sát hàng ngàn thường dân tại Huế của phe tấn công hay phe “nổi dậy”. Cho dù nhờ những oái ăm, trớ trêu của lịch sử, mà sự thất bại nặng nề về quân sự đó cuối cùng lại biến thành sự “chiến thắng” về mặt chính trị cho Miền Bắc, dẫn đến sự chuyển hướng của cuộc chiến tranh và sự rút lui của Mỹ, bỏ rơi đồng minh VNCH về sau này, nhưng rõ ràng, đó vẫn là một sự kiện đẫm máu, một sự tráo trở, lừa dối, không chính danh đứng về phía đảng cộng sản.
Lẽ ra sau 50 năm, một quãng thời gian đủ dài để nhìn nhận lại, đánh giá lại lịch sử, nếu đảng cộng sản vẫn chưa đủ dũng cảm để công khai, minh bạch những sai lầm, tội ác cùa mình và có một thái độ thành khẩn sám hối trước nhân dân, trước lịch sử thỉ cũng không nên nhắc lại nhiều biến cố này. Vinh quang gì khi người Việt giết người Việt? Đàng này, “non sông dễ đổi, bản tính/ bản chất khó dời”, đảng và nhà nước cộng sản lại ra sức tổ chức kỷ niệm sự kiện Mậu Thân một cách rình rang, lịnh cho báo chí truyền thông tiếp tục dối trá, bóp méo lịch sử, tiếp tục “tẩy não” các thế hệ trẻ như họ đã làm bao năm qua, khoét sâu thêm vết thương chưa lành của bao nạn nhân cùng gia đình họ. Hệ quả là những nhân chứng, những người có lương tri lại buộc lòng phải lên tiếng. Sự chia rẽ trong lòng dân tộc lại trỗi dậy và lời kêu gọi hòa giải hòa hợp lậu nay từ phía đảng cộng sản, thêm một lần nữa cho thấy chỉ là đầu môi chót lưỡi, không bao giờ có thể thực hiện được.
Việc ăn mừng sự kiện Mậu Thân chứng tỏ đảng cộng sản hoàn toàn không thay đổi từ nhận thức đến thái độ, hành động và hoàn toàn “thất nhân tâm” đối với đại đa số người dân Việt ở cả hai miền, trong và ngoài nước.
Sự kiện lịch sử tiếp theo là ngày 17.2, đúng mùng hai Tết, là ngày tưởng niệm 39 năm nổ ra cuộc chiến tranh biên giới Việt Trung-17.2.1979-17.2.2018, tuy ngắn ngủi nhưng tàn khốc, với sự dã man từ phía binh lính Trung Cộng khi quyết chí giết hại càng nhiều càng tốt dân Việt Nam, bất kể già trẻ lớn bé, quyết chí đốt sạch, phá sạch các cơ sở vật chất, trường học, nhà máy…tại những nơi mà chúng tấn công. Cuộc chiến tranh tuy trện danh nghĩa là kết thúc sau 1 tháng khi Trung Cộng tuyên bố rút quân, nhưng trên thực tế những xung đột giữa hai bên vẫn tiếp tục kéo dài cho đến tận năm 1988.
Thế nhưng, kể từ sau khi vội vàng xin “bình thường hóa quan hệ” giữa hai nước, đảng và nhà nước cộng sản hầu như không muốn nhắc đến cuộc chiến này. Trong nhiều năm báo chí truyền thông được lịnh “câm lặng”, sách giáo khoa bỏ trống những trang lịch sử bi hùng, những tấm bia, dấu tích cuộc chiến bị đục bỏ bớt chữ…Có một giai đoạn người dân chỉ cần lên tiếng “Hoàng Sa-Trường Sa là của VN” hay có những hành vi tưởng niệm cuộc chiến này và việc mất Hoàng Sa, Trường Sa là bị xách nhiễu đủ kiểu, và bị bắt vào tù. Mấy năm gần đây trước sự phẫn nộ của dư luận, báo chí đảng được phép có một số bài viết, sách giáo khoa có được chừng mươi dòng về cuộc chiến…
Nhưng nhà cầm quyền vẫn tìm mọi cách ngăn cấm sự biểu hiện lòng yêu nước của người dân. Chẳng hạn, những khu vực như phía trước tượng đài Lý Thái Tổ ở Hà Nội, nơi nhiều nhà hoạt động hay tổ chức tưởng niệm những sự kiện lịch sử này thì họ cho công nhân ra đục đá ầm ỹ hoặc cho người ra khiêu vũ để “chiếm chỗ”. Năm nay cũng vậy, họ lại cho một đám người ra dìu nhau khiêu vũ giữa ban ngày ban mặt!
Tất cả chỉ nhằm một mục đích ngăn chặn, bóp nghẹt lòng yêu nước, căm thù bọn giặc phương Bắc tàn ác, dã man của người Việt, và nhằm xóa mờ những ký ức về một giai đoạn lịch sử. Thật trái ngược với sự công khai, ầm ỹ ăn mừng năm nào cũng vậy đối với những gì liên quan đến cuộc chiến tranh chống Mỹ và VNCH. Và đó là chủ trương, chính sách xuyên suốt bao nhiêu năm nay không hề thay đổi của đảng cộng sản.
Đối với VNCH, cùng chung một giòng máu, chung một tổ tiên nguồn cội, chung một quê hương nhưng khác ý thức hệ, thì từ sau khi chiến thắng và cho tới tận bây giờ nhà cầm quyền vẫn luôn luôn đối xử vô cùng khắc nghiệt, nhỏ nhen. Từ cách đánh giá về chính quyền VNCH vẫn không thay đổi, nghĩa trang Biên Hòa của bao nhiêu binh lính MN vẫn bị bỏ hoang phế, những người thương phế binh VNCH với cuộc sống khổ cực lắt lay qua ngày nhưng nếu có các tổ chức thiện nguyện nào đó muốn tập họp gửi tặng họ chút quà để an ủi thì bị chính quyền địa phương ngăn trở, cấm đoán; bất cứ cái gì dính dáng tới chế độ VNCH từ một lá cờ hay bộ quân phục đều trở thành “điều cấm kỵ” mà người nào cầm, mang lá cờ ấy hay bộ quân phục ấy sẽ bị tống vào tủ như Nguyễn Phương Uyên, Đinh Nguyên Kha, Nguyễn Viết Dũng tức “Dũng Phi Hổ” v.v…
Đối với Mỹ, mặc dù hai bên đã “bình thường hóa quan hệ” (năm 1995, mất hai mươi năm sau khi chiến tranh kết thúc) nhưng mọi sự tiến triển đều rất chậm chạp, ù lì, khiến VN bỏ lỡ nhiều cơ hội trong việc thúc đẩy quan hệ giữa hai bên, vì quyền lợi của cả hai, nhất là của VN. Trong nhiều năm, đảng cộng sản tiếp tục chơi trò “đu dây” giữa Trung Quốc và Mỹ, cứ khi nào bị Bắc Kinh lấn lướt, thiệt hại quá thì VN lại quay sang ve vãn Hoa Kỳ, khi Bắc Kinh bớt hung hăng thì VN lại “nồng ấm” với họ, nhưng dù thế nào thì cũng vẫn không quên hàng năm tổ chức ăn mừng chiến thắng, lên án “giặc Mỹ”.
Chính sách “đu dây”, hai mặt đó của VN chỉ là trò khôn vặt, câu giờ và không có lợi gì cho dân tộc, cho đất nước, như chúng ta thấy. Không có một quốc gia nào thực sự tin tưởng vào một nhà cầm quyền không đáng tin như vậy. Và giờ đây, VN thực sự không có đồng minh trong khi Trung Cộng đã kịp trở nên hùng mạnh hơn rất nhiều về kinh tế lẫn quân sự và là mối đe dọa lớn nhất đối với chủ quyền, độc lập, toàn vẹn lãnh thổ lãnh hải của VN, còn thế giới, từ Hoa Kỳ cho tới châu Âu thì chẳng còn quan tâm gì đến số phận của VN nữa!
Như đã nói, so với Mỹ và VNCH, chủ trương, chính sách của đảng cộng sản VN đối với Trung Cộng hoàn toàn khác. Dù bị Trung Cộng “dạy cho một bài học” về quận sự và vô số bài học về kinh tế, đảng cộng sản vẫn nhắm mắt quỵ lụy dựa vào Bắc Kinh hòng được yên thận và kéo dài tuổi thọ của chế độ. Các đời lãnh đạo cấp cao nhất của VN càng về sau càng trở nên hèn hạ, bạc nhược trước Bắc Kinh, và càng công khai rước voi về dày mả tổ, khi mở toang của rước giặc vào nhà trên mọi lĩnh vực, suốt từ Nam ra Bắc. Nhờ “công lao” của đảng cộng sản mà chưa bao giờ VN bị lún sâu đến thế trong mối quan hệ Việt-Trung bất xứng, đầy thiệt thòi và rủi ro này.
Sau hơn 40 năm, tin rằng đại đa số người VN không muốn khoét sâu thêm những vết thương của cuộc nội chiến, muốn lịch sử phải được viết lại một cách minh bạch, sự thật phải được trả lại để người Việt có thể học được những bài học đắt giá và tiến về phía trước. Đại đa số người dân Việt trong và ngoài nước muốn VN thay đổi theo xu hướng tự do dân chủ, bắt tay làm bạn, làm đồng minh với những cường quốc dân chủ, hùng mạnh trên thế giới như Mỹ, Anh, Pháp, Đức…và hết sức thận trọng với Trung Quốc, từng bước tìm cách thoát ra khỏi sự kìm tỏa, chi phối, can thiệp quá sâu vào nội bộ chính trị cũng như lũng đoạn về kinh tế VN của Trung Cộng v.v..
Thì đảng và nhà nước cộng sản lại hoàn toàn làm ngược lại.
Ngay từ đầu, đảng cộng sản đã luôn luôn lựa chọn sai đường, sai đồng minh, nhầm lẫn bạn-thù, luôn luôn đặt quyền lợi của đảng lên trện hết, bất chấp lợi ích của đất nước, dân tộc.
Và cho đến tận bây giờ, ý đảng vẫn luôn luôn ngược với lòng dân.
Một đảng cầm quyền như vậy có lý do gì để vẫn tiếp tục là vật cản ngăn trở mọi sự thay đổi, phát triển theo chiều hướng tích cực, tốt đẹp hơn của VN?
Song Chi
Blog RFA
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét