Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa VII trong Hội nghị lần thứ 4, vào hôm 14/01/1993 đã ban hành Nghị quyết số 04-NQ/TW về chính sách dân số và kế hoạch hóa gia đình. Một trong những nguyên nhân chính mà chính sách này được ban hành là do vào thời điểm đó Việt Nam đứng đầu Châu Á về tỷ lệ nạo, phá thai; đồng thời giải quyết vấn đề phân bổ dân số, nâng cao chất lượng dân số và nâng cao chất lượng dịch vụ chăm sóc sức khỏe cộng đồng.
Người Việt Nam rất coi trọng việc sinh con để duy trì nòi giống và luôn quan niệm con cháu là phúc đức Trời ban cho. Mặc dù từ ngàn xưa dân gian luôn cho rằng “trời sanh voi sanh cỏ”, nhưng bởi do quan điểm “nhất nam viết hữu thập nữ viết vô”, đã góp phần không nhỏ khiến cho Việt Nam có tỷ lệ nạo, phá thai cao nhất ở Châu Á cách đây từ hơn 2 thập niên qua.
Thế nhưng, kể từ khi Việt Nam ban hành chính sách dân số và kế hoạch hóa gia đình với khắp nơi nơi từ thành thị đến nông thôn ngập tràn các biển khẩu hiệu “Kiên trì thực hiện mục tiêu mỗi gia đình chỉ có từ một tới hai con”, “Con gái hay con trai đều là niềm vui, hạnh phúc của mỗi gia đình”, “Dù gái hay trai chỉ hai là đủ”…cùng nhiều chương trình tuyên truyền khác dần dà làm thay đổi quan điểm sinh nhiều con của người Việt Nam. Đặc biệt, giới công nhân viên chức, nếu sinh hơn hai con thì họ không được xét duyệt lao động tiên tiến mỗi cuối năm.
Theo số liệu Tổng cục Dân số-kế hoạch hóa gia đình, thuộc Bộ Y tế ghi nhận, trong hơn 20 năm thực hiện chính sách dân số và kế hoạch hóa gia đình, Việt Nam hạn chế được hơn 27 triệu người và trung bình một phụ nữ trong độ tuổi sinh nở chỉ sinh 2,1 con.
Từ năm 2011, Việt Nam chính thức bước vào giai đoạn già dân số.
Hồi xưa, quan niệm của những người bà mà mình từng quen biết thì cho rằng đẻ cho hết trứng. Thậm chí nói như vậy đó. Còn bây giờ gần như không có khái niệm là người ta muốn đẻ nhiều. Có thể là do áp lực cuộc sống. Không biết nếu cuộc sống thoải mái thì người ta có muốn đẻ không nhưng mình đi mình gặp toàn những con người bận rộn với công việc thì người ta không muốn đẻ nhiều. Tất nhiên, cũng có nhiều người thích có con đồng thì vui nhưng mà không có thời gian; nhất là người lớn tuổi nữa, cứ nghĩ bây giờ đẻ con ra mà mình già rồi còn con nhỏ xíu thì rất tội nghiệp cho con
-Tiến sĩ ẩn danh
Bộ Y tế đã soạn thảo một Dự luật Dân số mới và cho biết các chuyên gia đề xuất nới lỏng chính sách sinh hai con trong Dự thảo luật này, theo đó các cặp vợ chồng có quyền quyết định số con sẽ sinh, thời gian và khỏang cách giữa các lần sinh và Chính phủ quy định giảm sinh ở những tỉnh thành có mức sinh cao, ngược lại khuyến khích các vợ chồng sinh đủ 2 con ở vùng có mức sinh thấp.-Tiến sĩ ẩn danh
Tâm lý ngại sinh con
Đài RFA ghi nhận trong nhịp sống chuyển đổi từ nông nghiệp sang công nghiệp trong quá trình Việt Nam thực hiện đổi mới theo chủ trương “công nghiệp hóa-hiện đại hóa”, dân chúng tại Việt Nam cũng bị thay đổi tâm lý ngại sinh con giống như một số quốc gia công nghiệp trên thế giới, gần nhất là các quốc gia ở Châu Á như Nhật Bản, Hàn Quốc…
Một Tiến sĩ trong ngành giáo dục, không muốn nêu tên, cư ngụ tại Sài Gòn nói với RFA rằng ở độ tuổi ngoài 40, có hai đứa con gái nhỏ là quá đủ cho gia đình ông, và quyết định không sinh thêm con của vợ chồng ông không phải là trường hợp cá biệt. Vị Tiến sĩ ẩn danh chia sẻ thêm:
“Hồi xưa, quan niệm của những người bà mà mình từng quen biết thì cho rằng đẻ cho hết trứng. Thậm chí nói như vậy đó. Còn bây giờ gần như không có khái niệm là người ta muốn đẻ nhiều. Có thể là do áp lực cuộc sống. Không biết nếu cuộc sống thoải mái thì người ta có muốn đẻ không nhưng mình đi mình gặp toàn những con người bận rộn với công việc thì người ta không muốn đẻ nhiều. Tất nhiên, cũng có nhiều người thích có con đồng thì vui nhưng mà không có thời gian; nhất là người lớn tuổi nữa, cứ nghĩ bây giờ đẻ con ra mà mình già rồi còn con nhỏ xíu thì rất tội nghiệp cho con.”
Bà An, một người mẹ U40 của hai cậu con trai nhỏ cũng ở Sài Gòn cho biết áp lực cuộc sống mà bà đang rất vất vả vừa đi làm vừa phải chăm con, trong khi việc thuê mướn người giúp việc vừa ý thay mình chăm sóc con cái không phải là điều dễ dàng. Bà An cho biết:
“Cực lắm! Nuôi đứa con bây giờ đủ thứ chuyện hết. Đưa đón đi học, lớn lên một chút thì tôi suốt ngày ở ngoài đường thôi. Đưa đi, rước về. Ăn uống…Hồi xưa đâu có học thêm nhiều như bây giờ. Hè thì cứ học suốt. Phải tranh thủ từng chút một mới có thời gian cho con đi chơi. Không học thì con không chịu vì con sợ không bằng bạn bè.”
“Ông bà ngày xưa có con là sanh đẻ được bao nhiêu thì cứ đẻ, nhưng mà cái chuyện là nuôi nỗi hay không. Tại vì bây giờ một đứa đi học cũng tốn tiền nhiều lắm. Đúng ra là với khả năng kinh tế thì không nên sanh nhiều, mới nuôi con được trọn vẹn.”
Cô giáo nghỉ hưu Lê Thị Năm còn nhấn mạnh tuy mình từng sinh nở và nuôi dạy 3 đứa con khôn lớn trong thời kỳ bao cấp khó khăn hơn cuộc sống hiện tại rất nhiều, tuy nhiên với cuộc sống tất bật như bây giờ và với nhiều áp lực như công việc, kinh tế, thời gian, và cả sự chịu đựng đau đớn, vất vả của người phụ nữ thì cô giáo Năm không khuyến khích con của mình sinh thêm đứa thứ hai, dù bà sẵn sàng giúp đỡ trông cháu. Cô giáo Năm tâm tình:
“Nói vậy chứ mình đâu có sống hoài để tiếp con cháu được đâu. Tới một ngày nào đó rồi không còn sức khỏe nữa hay chết rồi thì cũng đâu có phụ giúp nuôi được. Cho nên do mấy đứa con tụi nó liệu thôi.”
Vẫn không muốn sinh thêm dù được hỗ trợ?
Tổng cục Dân số-kế hoạch hóa gia đình tiến hành một cuộc khảo sát, lấy ý kiến về mong muốn sinh con của người Việt Nam. Và trên trang điện tử của cơ quan này tính đến chiều ngày 24/09/19 cho thấy có 14.400 ý kiến với hơn 49% muốn có 2 con, gần 43% mong có 3 con trở lên, 5,09% muốn có 1 con và hơn 1,5% không muốn sinh con.
Vào hôm 27 tháng 9 vừa qua, Tổng cục trưởng Tổng cục Dân số, ông Nguyễn Doãn Tú trong một cuộc phỏng vấn với Tuổi Trẻ Online cho biết hiện Tổng cục Dân số Việt Nam đã có những chính sách khuyến khích sinh con, chẳng hạn như phụ nữ ở khu vực sinh con thấp được tăng thời gian nghỉ khi sinh con hay có trợ cấp xã hội; khu công nghiệp hay khu chế xuất quy mô ở một mức độ nào đó thì bắt buộc có nhà trẻ, trường học…Bên cạnh đó, Luật Bảo hiểm Xã hội 2014 cũng có nhiều thay đổi và có hiệu lực kể từ ngày 01/07/19, như khi vợ sinh con thì chồng được hưởng trợ cấp và nghỉ chế độ thai sản nhiều hơn trước đây.
Nếu được ở nhà thì tôi sẽ sanh nữa, vì tôi thích em bé, thích có con. Nhưng mà mình sợ xã hội bây giờ bị nhiều bệnh do thực phẩm, thức ăn không an toàn nên lo sợ không biết nuôi con có tốt không? Vậy mà sợ, không dám sanh. Đủ thứ bệnh hết trơn. Sanh đứa con nhỏ mà hôm nay sốt, mai sốt là thấy lo rồi. Chứ còn như mình sống ở một xã hội sạch sẽ hơn, hiện đại hơn thì có thể cân nhắc việc sanh thêm con được dễ. Đằng này ở đây thì môi trường ô nhiễm cũng nhiều, thực phẩm cũng không an toàn, bệnh hoạn…Thôi, không dám sanh đâu. Sanh ra tội nghiệp nó
-Bà mẹ U40
Mặc dù vậy, tại những khu vực được ghi nhận là vùng có tỷ lệ sinh con thấp như thành phố Hồ Chí Minh, khu vực miền Đông Nam Bộ và vùng Đồng bằng Sông Cửu Long, qua tìm hiểu, chúng tôi được các gia đình, đặc biệt là phụ nữ trong độ tuổi sinh con không tỏ ra phấn khởi trước những chính sách khuyến khích sinh con của Nhà nước.-Bà mẹ U40
Bà An còn nhấn mạnh bản thân muốn sinh thêm con nếu có điều kiện, nhưng:
“Nếu được ở nhà thì tôi sẽ sanh nữa, vì tôi thích em bé, thích có con. Nhưng mà mình sợ xã hội bây giờ bị nhiều bệnh do thực phẩm, thức ăn không an toàn nên lo sợ không biết nuôi con có tốt không? Vậy mà sợ, không dám sanh. Đủ thứ bệnh hết trơn. Sanh đứa con nhỏ mà hôm nay sốt, mai sốt là thấy lo rồi. Chứ còn như mình sống ở một xã hội sạch sẽ hơn, hiện đại hơn thì có thể cân nhắc việc sanh thêm con được dễ. Đằng này ở đây thì môi trường ô nhiễm cũng nhiều, thực phẩm cũng không an toàn, bệnh hoạn…Thôi, không dám sanh đâu. Sanh ra tội nghiệp nó.”
Bí thư thành phố Hồ Chí Minh Nguyễn Thiện Nhân hồi trung tuần tháng 9 đã tuyên bố rằng “Nếu người phụ nữa không sinh được hai con thì đất nước đó sẽ ngày càng chao đảo”.
Báo giới Việt Nam vào trung tuần tháng 10 còn đồng loạt đăng tải cảnh báo của các nhà khoa học dự báo tốc độ già hóa dân số của Việt Nam sẽ tăng thuộc hàng nhanh nhất thế giới và Việt Nam chỉ mất khoảng 20-22 năm để chuyển từ “giai đoạn già hóa dân số” sang “giai đoạn dân số già”.
RFA
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét