Thuật ngữ lịch sử gợi lại hình ảnh những đoàn lữ hành buôn tơ lụa trên sa mạc và các thương nhân khác đi băng qua Trung Quốc, xuyên Trung Á rồi đến các thị trường Âu châu. Nó cũng gợi lại những chuyến du hành của Marco Polo, thương nhân mạo hiểm người Venice, vào thế kỷ 13. Ông là một trong những thương nhân đầu tiên đến Trung Quốc và báo tin về một nước Trung Quốc lạ kỳ cùng những mặt hàng tơ lụa của nó.
Các tài liệu quan hệ công chúng (PR) của BRI cũng thường giả định chỉ ra “Con đường tơ lụa phía nam” (Southern Silk Road), một tuyến đường thương mại nổi tiếng, có nguồn gốc từ phía nam tỉnh Tứ Xuyên của Trung Quốc, đi qua Myanmar ngày nay, đến tận vịnh Bengal và tiểu lục địa Ấn Độ.
Con đường thương mại mang tính lịch sử đáng ngờ đó được tô điểm thêm bằng một con đường giả định trải dài trên biển mang tên Maritime Silk Road và được cho là đã đi qua Ấn Độ Dương suốt một giai đoạn không xác định trong lịch sử.
Rất ít, nếu có, nhà sử học bàn thảo về sự kiện thương mại đáng kể giữa Trung Quốc và Âu châu ở thời trung cổ.
Nhưng không có tài liệu lịch sử khả tín nào nói về một “Con đường tơ lụa phía nam” nối kết Trung Quốc với Ấn Độ, vì Trung Quốc đã nhiều lần cố gắng xâm nhập Myanmar nhưng đều thất bại thảm hại. Trong lịch sử, Trung Quốc cũng không tiến hành các cuộc mạo hiểm hàng hải nhằm thúc đẩy thương mại, sau lần Trịnh Hòa, nhà thám hiểm biển cổ đại duy nhất của nước này, đi thuyền xuyên Ấn Độ Dương vào thế kỷ 15.
Thuật ngữ “Con đường tơ lụa” trong thực tế lịch sử là sự lạm dụng thuật ngữ eurocentric (*) vốn có nguồn gốc tương đối gần đây. Lars Ellstrøm, nhà Hán học nổi tiếng người Thụy Điển, đã đi dọc chiều dài Trung Quốc từ năm 2009 – 2011, và tóm gọn rất chính xác thuật ngữ này trong cuốn sách du hành Road to Kashgar của mình.
“Cái tên Con đường tơ lụa có lẽ đã dính chặt với phương Tây vì nó tạo ấn tượng – sai lầm – việc Trung Quốc buôn bán với Âu châu là quan trọng nhất và một phần vì kỳ lạ và thú vị”. Ellstrøm cho rằng “Đó cũng là lý do tại sao thuật ngữ này được sử dụng ở Trung Quốc ngày nay: nó quảng cáo rất hiệu quả cho quốc gia và đóng góp cho ngành du lịch”.
Mặt khác, nó cũng giúp Bắc Kinh ngon ngọt rao bán ý niệm BRI cho số thính giả rộng lớn hơn trên toàn cầu mặc dù ý niệm này là đối tượng gây tranh cãi, và ngày càng bị nhiều chỉ trích vì xói mòn chủ quyền của các quốc gia tiếp nhận bằng cái bẫy nợ.
“Con đường tơ lụa” không phải là thuật ngữ gốc của Trung Quốc. Thật vậy, nó được sử dụng chính thức lần đầu tiên ở Trung Quốc vào năm 1989, khi Foreign Languages Press ở Bắc Kinh xuất bản một cuốn sách có nhan đề “Con đường Tơ lụa: Quá khứ và Hiện tại” của tác giả Trung Quốc Che Muqi.
Che không cho biết thuật ngữ “Con đường Tơ lụa”, Seidenstrasse, hay đúng hơn, Seidentstrassen ở số nhiều trong tiếng Đức, là do Ferdinand von Richthofen, nhà địa lý học người Đức đặt ra từ thế kỷ 19. Von Richthofen sử dụng thuật ngữ này trong các báo cáo học thuật của mình từ Trung Á, được xuất bản lần đầu tiên tại Berlin năm 1877.
Tuy nhiên, thuật ngữ này không thường được dùng trước khi Sven Hedin, nhà thám hiểm người Thụy Điển và cũng là một trong những học trò của von Richthofen tại đại học Berlin Lumboldt, bắt đầu sử dụng nó trong các bài nghiên cứu của mình vào những năm 1930.
Hedin rập khuôn theo bước chân của Von Richthofen với những chuyến đi ở Trung Á, và vào năm 1936, đã xuất bản một cuốn sách tiếng Đức có nhan đề Die Seidenstrasse và Sidenvågen tiếng Thụy Điển. Sau đó nó được dịch sang một số ngôn ngữ khác, gồm cả tiếng Anh vào năm 1938 và được biết đến với cái tên “Con đường tơ lụa”.
Không rõ lý do chính xác tại sao Von Richthofen và Hedin lại chọn thuật ngữ “Con đường tơ lụa” bởi lẽ vào thời điểm đó, có nhiều loại hàng hóa được giao dịch giữa Trung Quốc và Âu châu. Thật vậy, trong đế chế La Mã cổ đại, lụa thường bị coi khinh vì nó là mặt hàng xa xỉ không phù hợp do bề mặt mịn màng và quyến rũ gợi dục.
Warwich Ball, nhà khảo cổ học người Úc, trong các bài viết của mình đã đánh giá thuật ngữ “Con đường tơ lụa” như huyền thoại của giới khoa bảng hiện đại, vì đối với nền kinh tế của cả đế chế La Mã và các nước Âu châu thời Trung Cổ, buôn bán gia vị với Ấn Độ và các nước Ả Rập quan trọng hơn buôn bán tơ lụa với Trung Quốc rất nhiều.
Hơn nữa, nếu từng có thứ gì giống như một “Con đường tơ lụa phía nam” nối kết miền nam Trung Quốc với Ấn Độ Dương thông qua Myanmar, thì nó cũng chỉ để Trung Quốc dùng vào việc nhập khẩu ngọc bích, vì khi ấy cũng như bây giờ, người Trung Quốc xem đó là đá quý, đến từ các mỏ ngày nay ở bang Kachin.
Rất ít thương nhân Trung Quốc dám mạo hiểm vượt ra ngoài phía bắc các mỏ ngọc bích và xuống vùng đồng bằng trung tâm Myanmar, nơi giao dịch thương mại không đem lại nhiều lợi ích vào thời kỳ đó.
Sự thật lịch sử có thể kiểm chứng không phải lúc nào cũng được Bắc Kinh dùng trong việc tuyên truyền cho BRI, vì các cán bộ tuyên truyền của nhà nước hiện đang bận sáng chế ra nhiều “Con đường tơ lụa mới”, dựa vào những con đường trong quá khứ. Ngoài những “Con đường tơ lụa phía nam” và đường hàng hải, họ còn đang lên kế hoạch tạo ra một “Con đường băng tơ lụa” (Ice Silk Road) nối kết Trung Quốc với các cảng phía bắc của Nga ở Bắc Băng Dương, đến tận Âu châu.
Dự án Bắc Cực dự kiến các công ty Trung Quốc và Nga sẽ tìm cách hợp tác khai thác dầu khí trong khu vực hàng hải mở cửa. Trung Quốc vẫn chưa tuyên bố cơ sở lịch sử nào dành cho con đường băng tơ lụa của họ vì một yêu sách như vậy sẽ ít hợp lý so với những con đường tơ lụa trong tưởng tượng khác.
Nhưng hiện vẫn chưa rõ là chủ nghĩa xét lại “Con đường tơ lụa” của Bắc Kinh sẽ mở đường cho BRI có nhìn về một trật tự thương mại toàn cầu mới, với Trung Quốc là trung tâm và hiện đại. Thật vậy, sự đối kháng đang gia tăng trên nhiều tuyến đường của “Con đường tơ lụa mới”.
Một phần quan trọng trong “Con đường tơ lụa phía nam” của BRI là Hành lang Kinh tế Bangladesh – Ấn Độ – Myanmar. Myanmar nằm giữa tầm nhìn “Con đường tơ lụa mới” của Bắc Kinh, với các kế hoạch mở đường sắt cao tốc, xa lộ và hải cảng. Nhưng những mối lo ngại về bẫy nợ có thể xảy ra, khiến các dự tính to lớn trước kia bị rút lại.
Hành lang kinh tế giữa Trung Quốc và Pakistan dọc theo các tuyến đường tơ lụa cổ xưa, nối liền vùng tây bắc tỉnh Tân Cương Trung Quốc với cảng Gwadar của Pakistan trên biển Ả Rập, không phù hợp với tầm nhìn lịch sử đối với sự di chuyển tự do của con người và hàng hóa.
Thủ tướng Pakistan Imran Khan thường xuyên né tránh các câu hỏi về cách đối xử của Trung Quốc đối với người Hồi Giáo Duy Ngô Nhĩ ở Tân Cương, nơi có hơn một triệu người đang bị giam giữ trong các trại giam sát biên giới nước ông. Khi báo Financial Times đặt câu hỏi về lập trường của ông về vấn đề này, Khan trả lời “Tôi không biết nhiều về chuyện đó”.
Để Con đường tơ lụa mới được chắc chắn, tầm nhìn thời hiện đại của Trung Quốc là viết lại lịch sử. Bắc Kinh vươn ra ngoài biên giới theo những cách chưa từng có trước kia: Xây dựng đường xá, hỏa xa và bến cảng nhằm thúc đẩy kinh tế. Có lẽ Von Richthofen không bao giờ tưởng tượng nổi Seidenstrassen của mình sẽ được sử dụng và bị lạm dụng đến mức độ nào trong các mục đích chính trị.
Giống như bản chính con đường tơ lụa, BRI của Tập đang cạnh tranh kiểm soát các tuyến đường thương mại có giá trị, đẩy Trung Quốc chống Hoa Kỳ, Liên Minh châu Âu, Ấn Độ, Nhật Bản và những quốc gia tìm cách chống lại quyền bá chủ của Bắc Kinh.
Nhưng không giống như thời cổ đại, khi lạc đà mang tơ lụa và những sản phẩm khác từ Trung Quốc băng qua các sa mạc ở Trung Á, tính chiến lược địa lý trong cuộc thi ngày nay cũng nhiều như thương mại.
Tác giả: Bertil Lintner, từ Chiang Mai
Dịch giả: Hoàng Thủy Ngữ
Nguồn: Bertil Lintner, Busting the myth of China’s New Silk Roads. Asia Times
- Ghi chú: (*) Eurocentric (adj): Euro là châu Âu. Centric là trung tâm. Eurocentric là lấy các nước châu Âu làm trung tâm.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét