Phan Thanh Giản dưới mắt người Pháp - Người Đưa Tin -->

Breaking

Post Top Ad

Thứ Tư, 18 tháng 12, 2019

Phan Thanh Giản dưới mắt người Pháp


Từ hiệp ước I862, cho đến khi thượng tướng La Grandière sáp nhập nốt ba tỉnh miền Tây Nam-kỳ, Phan Thanh Giản đã giữ một vai trò chính yếu trong các sự giao thiệp giữa triều-đình Huế và người Pháp : ông đã đại diện cho triều-đình để ký hiệp ước I862, ông đã cầm đầu một phái bộ qua Pháp để điều đình về những vấn đề liên quan tới hiệp ước ấy ; được cử làm kinh lược ba tỉnh miền Tây Nam-kỳ, ông đã phải đương đầu với chính sách bành trướng rất hoạt động của La Grandière. Tất nhiên, Phan Thanh Giản đã là một trong những vị quan Việt-Nam tiếp xúc nhiều nhất với người Pháp, và vài sĩ quan Pháp đã tường thuật lại một số những cuộc tiếp xúc này. Các tài liệu ấy cho phép chúng ta được biết người Pháp đã nhìn Phan Thanh Giản ra sao.



I.– CUỘC ĐỜI CỦA PHAN THANH GIẢN, TÓM LƯỢC BỞI E. LURO

Eliacin Luro tới Nam-kỳ năm I864 và sống ở đây cho tới năm I876. Ông điều khiển Sở tư-pháp bản xứ dưới thời Thống-đốc Dupré, và được giao phó nhiệm vụ tổ chức Trường tập-sự (Collège des Stagiaires), có mục đích đào tạo những vị tham biện của nền hành chánh của thuộc địa Nam-kỳ (Inspecteurs des Affaires Indigènes). Trong tác phẩm LE PAYS D’ANNAM của ông, nói về sự tổ chức xứ Việt-Nam của triều Nguyễn, ông đã dẫn Phan Thanh Giản làm điển hình cho quan lại Việt-Nam.

« Ở Pháp, người ta chỉ còn nhớ chút đỉnh tới phái bộ an-na-mít hướng dẫn bởi Phan Thanh Giản đến Paris vào năm I863. Nhân vật này đã giữ một vai trò quan trọng trong sự bang giao giữa hai quốc gia. Vài chi tiết về đời sống và tính nết của ông ta sẽ làm nổi bật cốt cách cao thượng và đạo đức cổ xưa thường được đôi khi tượng trưng bởi các đại sĩ phu của xứ An-nam.

« Phan Thanh giản là con trai của một viên chức hành chánh nhỏ. Thân-sinh ông, vì cấp trên thất sủng, bị kết án khổ sai, và vì thế phải làm những sưu dịch nặng nhọc nơi tỉnh lỵ. Phan Thanh Giản, tuy mới lên mười hai tuổi, không muốn rời thân phụ ; ông theo cạnh cha khắp nơi, để chia sẻ các khổ não cùng thân phụ, và giúp sức thân phụ trong các khổ dịch phải làm. Lòng hiếu tử của ông chẳng bao lâu được để ý, vì đấy là đức hạnh mà dân tộc này tôn trọng rất nhiều. Các quan tỉnh vời ông tới để chất vấn, và lấy làm kinh ngạc trước trí thông minh sớm sủa của ông : ông được lệnh thụ huấn quan Đốc-học, với hi vọng được thấy giảm bớt hình phạt của cha mình. Thiếu niên này hứa theo lòng mong muốn ấy và giữ lời : vài năm sau, ông đậu một cách vẻ vang các khoa thi cử nhân, và lên đường tới Huế để dự trường thi Tiến sĩ.

« Cho tới bây giờ, xứ Nam-kỳ vẫn chưa sản xuất được một vị tiến sĩ nào cả. Các bài thi của Phan Thanh Giản phi thường đến nỗi mà nhà vua, sau khi đã đọc những bài này, muốn đích thân sát hạch ông. Minh Mạng hài lòng với các lời đáp ứng của ông, giao phó cho ông một chức vụ thân tín. Vị tiến sĩ trẻ tuổi được nâng lên chức quan hàm chánh nhị phẩm mau chóng ; sau đó, ông được cử làm phó ngự sử. Tuân thủ đạo Nho, ông kính cẩn dâng lên nhà vua những lời trung cáo mỗi khi ông tin là Hoàng đế nhầm lẫn. Minh mạng là một vị đế vương chuyên chế thực sự, tự cho là không khi nào lầm lỗi. Vị tiến sĩ của chúng ta bị liên lụy quá nhiều bởi sự quan tâm của ông đối với các lợi ích của quốc vương ; sau khi đã bị trừng phạt nhiều lần vì lòng trung thực của ông, rốt cuộc ông bị tước đoạt quan hàm và chức vị, và được sung vào các đội quân tiền phong khi bấy giờ chinh chiến trong tỉnh Quảng Nam.

« Phan Thanh Giản phục tòng sự trừng phạt ấy với một lòng đại độ hiếm có. Mặc quần áo một binh quèn, ông đi hàng đầu, làm gương dũng cảm và tuân trọng kỷ luật cho tất cả mọi người. Không bao lâu, ông được tướng sĩ cảm phục và quân đội kính nể. Nhà vua, sau khi giác ngộ sự phẫn nộ bất công của mình, triệu ông về, và dưới các triều vua kế vị Minh Mạng, ông được nâng lên tới những chức quyền quốc gia đại dụng nhất.

« Khi chiến tranh bùng nổ giữa nước Pháp và nước Annam, ông là người độc nhất dám khuyến hòa, nhưng vô hiệu. Tới lúc triều đình Huế bị đưa tới đường cùng, chính ông là người mà nhà vua giao cho trách nhiệm thương lượng.

« Phan Thanh Giản ký kết hòa ước và nhờ sự khéo léo ngoại giao của ông, đạt được sự qui hoàn tỉnh Vĩnh Long. Khi đó, ông được phái làm sứ giả tới Paris và sau khi trở về, được cử làm quan Kinh-lược ba tỉnh ở phía Tây thuộc địa của chúng ta.

« Khi chúng tôi biết ông, ông là một cụ già bệ vệ, có phong độ trang nghiêm, trông cao nhã và tri xảo.

« Nhân vật xuất chúng này đã hiểu từ lâu là không thể chống cự nước Pháp được, và xét rằng vô ích tiếp tục một sự chiến đấu trong đó chỉ có máu người An na-mít chảy. Ông mong mỏi hòa ước sẽ được thi hành một cách trung trực, và đồng bào của ông sẽ trở nên học trò của chúng ta, và như là môn đồ của văn minh của chúng ta.

« Các ước vọng của những tinh thần cao thượng ấy ít khi được thực hiện ; không một nền văn minh nào hấp thụ một nền văn minh khác mà không bị những chấn động sâu rộng, những sự đấu tranh kéo dài và đau đớn. Chính phủ Pháp chán ngán các sự công kích không bao giờ chấm dứt khởi đầu từ ba tỉnh miền Tây, mặc dầu có nhiều cố gắng của Phan Thanh Giản, chán ngán lòng ngoan cố càng ngày càng gia tăng của triều đình Huế, mới sáp nhập ba tỉnh ấy vào xứ Nam-kỳ thuộc Pháp.

« Phan Thanh Giản không kháng cự vì ông hiểu là hoàn toàn vô ích. Ông ra lệnh hiến thành cho quân đội Pháp và được tuân theo. Nhưng trung thành với quân vương, và để tự trừng phạt về điều mà sức ông đã không thể ngăn cản, ông từ chối các đề nghị trọng hậu của kẻ thắng, và với thái độ bình thản của một cổ nhân La-mã, uống thuốc độc.

« Vị kinh lược ba tỉnh, với một tinh thần thung dung cho tới phút cuối cùng, chết trong một căn nhà tranh nghèo nàn trong đó ông đã sống suốt thời gian ông cầm quyền, muốn bằng lối sống ấy nêu cho mọi người cái gương vong kỷ, bần cùng và liêm khiết trong sự thi hành những chức vụ cao quí nhất.

« Thân thế phi thường mà tôi vừa tóm tắt lại ấy chứng tỏ là đạo Khổng cũng có thể sản xuất những nhân vật mà chính các triết gia khắc kỷ trứ danh nhất cũng sẽ không phủ nhận… »

II.– HỒI ỨC CỦA ĐẠI-TÁ HẢI QUÂN RIEUNIER (THÁNG 9-I873)

Cuối tháng sáu năm I863, một phái bộ Việt-Nam gồm ba sứ giả và 66 người tùy tùng, cầm đầu bởi Phan Thanh Giản và hộ tống bởi đại úy hải quân Rieunier, rời Huế lên đường sang Paris để đề nghị với chính phủ Pháp mua lại ba tỉnh Nam-kỳ mà triều-đình Huế đã phải nhường cho Pháp với hiệp ước Saigon năm I862. Khi ấy, các cuộc viễn chinh xa xôi không được tán thành cho lắm ở Pháp vì chúng được coi là làm nặng thêm các sự thiếu hụt của ngân sách quốc gia mà không đưa về một lợi ích cụ thể nào. Trong số những nhân vật kêu gọi sự trả lại ba tinh miền Đông Nam-kỳ cho triều-đình Huế, có trung tá hải quân Aubaret, là người hiểu biết nhiều về Viễn-Đông, Aubaret có thảo vào năm I863 một bản báo cáo để trình bày những ý kiến của ông về vấn đề Nam-kỳ : bản báo cáo này được đề cập đến trong tài liệu phiên dịch sau đây.

Nhưng Rieunier, một sĩ quan đã tham dự các cuộc viễn chinh ở Trung-hoa và ở Nam-kỳ từ I857 tới I863, là một trong những người chống đối dự án triệt binh của Pháp ra khỏi Nam-kỳ ; để cổ vũ cho sự chiếm cứ ở Nam kỳ, ông xuất bản dưới bút hiệu H. ABEL hai quyển sách nhỏ : « LA QUESTION DE COCHINCHINE AU POINT DE VUE DES INTÉRÊTS FRANÇAIS » (tháng 4-I864) và « SOLUTION PRATIQUE DE LA QUESTION DE COCHINCHINE » (cuối năm I864).

« …Sống trong bốn tháng gần vị lão thành cao thượng ấy, chúng tôi có thể đánh giá các đức tính của ông ta… Và hồi tưởng lại lúc ấy, tôi còn thấy ông ngạc nhiên trước những điều xảy ra trên đại hải trình từ biển Nam-Hải tới Toulon ; trong thời gian vượt biển này, ông không ngớt được khuyến khích bởi lòng ái quốc nhiệt thành của ông, và thúc đẩy bởi nguyện vọng thực hiện được công chuyện hữu ích cho nước nhà…

« …Chúng tôi còn nhớ là, trong ba trường hợp mà cảnh tượng thiên nhiên kỳ diệu hay hùng tráng còn hiến thêm phần hứng thú, gần quần đảo Krakatow…, gần cù lao Périm…, và trong eo biển Messine…, quan sứ thần tư lự tới ngồi cạnh chúng tôi trên cầu chỉ huy của tầu Européen, và khơi chuyện về mục đích của sứ mệnh của ông. Chúng tôi khuyên can ông đừng có những mộng ảo về sự chuyển nhượng lãnh thổ mà chúng ta đã chinh phục, nhưng hứa ông sẽ được tiếp đón rất nồng hậu ở Pháp. Sau đó, chúng tôi đàm đạo về tương lai của xứ sở của ông, về khả năng của dân tộc xứ ấy, và về những lợi ích mà cả dân chúng và quan lại sẽ hưởng được của nền văn minh của chúng ta. Hơn bất cứ ai trong đồng bào của ông, ông kính trọng giá trị của nền văn minh ấy. Và ông luôn luôn chấm dứt câu chuyện bằng lời nói này : « Vẫn còn phải đợi, nhưng cho tới khi ấy hai quốc gia chúng ta sẽ không kém giao hảo »…

« …Ngày mà phái bộ tới Toulon, vào tháng 9-I863, một tin đồn phóng ra trong tờ báo Indépendance belge bởi một kẻ vụ lợi, và được tái đăng trong tất cả các nhật báo Pháp, rêu rao rằng vua Tự Đức trả cho ta 85 triệu quan để mua lại ba tỉnh ta chiếm lãnh, nhưng nhường cho ta quyền chiếm hữu thương cảng Saigon. Tổng trưởng tài chính của ta, gặp nhiều khó khăn trong vấn đề giữ thăng bằng ngân sách vì những chi phí quá đáng của cuộc viễn chinh Mễ-tây-cơ, là người ủng hộ nhiệt liệt nhất (chúng ta dễ hiểu lập trường của ông) đề nghị này, sẽ được các sứ giả trình bày với những lời lẽ khác. Đã có một bản thuyết minh chép tay và sao ra 50 bản, đã được trình Hoàng-đế ngự lãm, và cũng được trình cho các tổng trưởng và các nhân vật cao cấp chú trọng tới vấn đề. Tác giả bản thuyết minh ấy đã được hân hạnh tường thuật các kết luận trước hội đồng các tổng trưởng ; dường như Hoàng-đế cũng đã chuẩn y các kết luận ấy nữa, và báo chí bán công ủng hộ chúng.

« Bản biện hộ thư này phát ra mà không được hay biết gì bởi thống đốc Nam-kỳ, vì sức khỏe suy bại phải nằm dưỡng bệnh tại Vichy ; nó được tán thành bởi giới cận thần của triều đình. Song sau khi đọc xong, mọi trí thức đứng đắn chắc phải lưỡng lự và hơn nữa có một thái độ phản đối trước các lập luận nghịch thường khéo léo chứa đựng trong ấy. Đấy là một khuyến cáo bất lương, có thể đã được phát biểu một cách vô ý thức và được ngụy trang dưới những ý kiến hấp dẫn vì độc đáo. Chúng tôi quyết định, sau khi tình cờ được đọc tài liệu ấy, nếu gặp dịp tốt sẽ triệt để bác luận nó. Thật vậy, lương tri thông thường nhất chỉ cho thấy là không cần thiết dị trang mọi công chức của ta thành quan-lại Trung-hoa, sau khi đã tốn công tốn của dậy cho họ cái học vấn nghèo nàn của các sĩ phu Thiên-quốc, tất cả những điều đó để mà cai trị các dân chúng đã được đặt dưới sự đô hộ của ta. Vả lại, những lời cuối mà Hoàng đế nói để trả lời bài diễn văn đọc bởi vị chánh sứ rất là cứng rắn trong bản dịch của nó. Các sứ giả An-na-mít, đã phải đợi trong lo âu đến hơn một tháng, ngày vào yết kiến Hoàng-đế, khi trở ra kinh ngạc rụng rời vì câu nói mà ý chung cho mọi tình trạng có thể áp dụng cho trường hợp của họ. Họ tưởng rằng mục đích của họ đã hỏng. Ngày hôm sau, họ được cáo tri là sự phúc đáp cho sứ mệnh của họ sẽ được gửi tới Huế trong hạn một năm. Và, cùng một lúc, họ được mời phát biểu các đề nghị của họ về các sự thông thương giữa hai quốc gia. Kể từ khi ấy, mặt mày các sứ giả bắt đầu hớn hở hẳn ra. Họ hiểu rằng họ có thể rời nước Pháp với một vài hi vọng thành công… »

III.– MỘT CUỘC ĐÀM THOẠI GIỮA PHAN THANH GIẢN VÀ TRUNG TÁ ANSART

Được cử làm thống-đốc Nam kỳ kể từ ngày I tháng 5 năm I863, thượng-tướng de La Grandière cho rằng cần phải sáp nhập nốt ba tỉnh miền Tây Nam-kỳ, để bảo đảm sự an ninh cho ba tỉnh thuộc địa Pháp. Ngay từ năm I866, ông quyết định bắt triều đình Huế phải chấp nhận sự chuẩn nhượng các tỉnh Vĩnh long, An-giang và Hà-tiên cho Pháp. Hình như triều-đình Huế thấy rõ tình trạng yếu ớt của mình và không còn hi vọng chống cự lại nổi các sự đòi hỏi đó : thái độ này được biểu lộ trong cuộc đàm thoại giữa quan kinh-lược Phan Thanh Giản và trung tá hải quân Auguste Ansart, tư lệnh tỉnh Mỹ-tho, và sau này sẽ là tư lệnh tỉnh Vĩnh-long, trong những năm I867-I868.

Mỹ-tho, I8-II-I866.
Kính thưa Thượng-tướng,

Tôi trân trọng trình lại Thượng-tướng cuộc đàm thoại của tôi với Phan Thanh Giản ngày I6 tháng này, khi ông ta dừng lại ở Mỹ-tho, trên đường từ Sài-gòn về Vĩnh-long.

Vào khoảng 4 giờ chiều, tôi dẫn Phan Thanh Giản vào trong cái đình trong vườn ; ở đấy, sau khi đã cho tất cả đoàn tuỳ tùng của ông lui ra, chính ông đã mở đầu câu chuyện qua trung gian của Cha Marc, và đã hỏi tôi câu này : « Khi nào các ông sẽ chiếm ba tỉnh đấy ? » Tôi trả lời ông rằng tôi hoàn toàn không biết gì về điều này, nhưng trước khi đi sâu vào câu chuyện, tôi phải nhắc lại với ông là tôi không có một tư cách chính thức nào để bàn về các vấn đề tương tự, và nếu tôi nhận đàm thoại về vấn đề ấy, ông chỉ được coi những lời nói của tôi như là sự phát biểu những ý kiến riêng tư, không thể dưới bất cứ một hình thức nào ràng buộc chính phủ Pháp được.

Ông trả lời tôi rằng ông muốn nói chuyện với tôi như là một người bạn và, tiếp tục cuộc đàm thoại, hỏi tôi tại sao chúng ta lại muốn chiếm ba tỉnh : « Các tỉnh này không phụ thuộc các ông sao, ông nói, và các quan lại không cố gắng thoả mãn tất cả mọi yêu sách của quan Thống-đốc sao ? Tất cả các sản phẩm của các tỉnh ấy không qua tay các ông sao ? Các ông không kiểm tra lối ra vào các tỉnh ấy sao ? Các ông hẳn không áp dụng ở đấy một quyền hành thật ra gần như tối cao, mà phái quá khích trách cứ chúng tôi ở triều đình, gọi chúng tôi là nô lệ của người Pháp ? » Tôi trả lời ông rằng nếu chính phủ Pháp muốn chiếm hữu ba tỉnh, đấy không phải chỉ để mở rộng thêm lãnh thổ, nhưng vì một nhu yếu chính trị mà chắc ông còn hiểu rõ hơn tôi nữa.

Ông mới đáp lại rằng : « Chính phủ Pháp sẽ viện một lẽ nào để trang sức sự lạm dụng thế lực ấy, vì chúng tôi sẽ không ngăn cản sự xâm lược bằng một sự kháng cự mà chúng tôi hiểu là vô ích ? Chúng tôi đã vi bội hoà ước ký trước đây chăng ? Tất cả mọi điều khoản của hoà ước ấy đã không được chúng tôi thi hành một cách trung thực hay sao ? » Tôi trả lời ông là ông đã quên cuộc nổi loạn năm I863 mà triều-đình Huế đã xui dục đúng vào lúc còn nghị hoà với thượng-tướng Bonard. Tôi nhắc lại với ông tất cả các sự phiến động trong các tỉnh của chúng ta, do những mật sứ chắc chắn đã được lệnh vì, nếu không, họ đã không thể nào tìm được nơi dân chúng tiếng vang mà họ đã gặp được. Tôi nhắc lại cho ông những sự toan tính của con trai của Quan Định, của Tien Ho 44, tức là hai lãnh tụ đã được họ ngầm giúp đỡ, chứa chấp và che chở ; các đoàn quân của những người này ngày nay vẫn về bè với Poukombo. Ngược dòng lịch sử, tôi hỏi ông Triều-đình Huế đã tôn trọng như thế nào hiệp ước với Louis XVI, và đã nhìn nhận như thế nào các sự giúp đỡ phi thường của giám mục Bá-đa-lộc và các sĩ quan Pháp tới phụng sự Gia-Long. Chính phủ Pháp và trên toàn diện tất cả các chính phủ Âu-châu ngày nay thấy rõ là các chính phủ Á-đông ít đếm xỉa tới các hiệp ước ký kết với Âu Tây, và chúng ta không còn có thể tin tưởng ở lòng thành của các chính phủ ấy mà không có những bằng chứng rõ ràng và cụ thể.

Phan Thanh Giản trả lời rằng những người An-na-mít ủng hộ Poukombo là những kẻ vô lại của các tỉnh của chúng ta cũng như của các tỉnh thuộc họ, rằng dân An-na-mít đã luôn luôn thắng dân Cao-mên, khinh bỉ dân này quá nhiều để mà nhập bọn với họ, và rằng cũng không nên đi tìm những mối bất bình trong quá khứ lịch sử, rằng những gì đã xảy ra là những việc đã qua, rằng những lầm lỗi trước kia của chính phủ An-na-mít là do sự không hiểu biết giá trị và trí thức của người Âu, nhưng ngày nay hai dân tộc đã rõ nhau, thì dân tộc hùng mạnh phải giúp đỡ và soi sáng cho dân tộc yếu, để đưa dân tộc này vào các con đường của văn minh. Hiệp ước ký kết giữa Hoàng-đế Pháp và vua Tự-Đức không những là một hiệp ước hoà bình, nhưng còn là một hiệp ước giao hữu, xoá bỏ tất cả dĩ vãng, và trở lại các lý lẽ trước của ông, Phan Thanh Giản nói với tôi rằng « người An-na-mít đã không làm một điều gì để vi ước, nhưng người Pháp về phía họ đã không có một cố gắng nào để truyền bá cho người An-na-mít các khoa học Âu Tây ; tuy rằng có hiệp ước giao hữu ấy, họ để mặc dân An-na-mít ở trong vòng vị khai và dốt nát, và lại còn lăm le vô cớ chiếm ba tỉnh tội nghiệp nữa ».

Tôi đáp lại Phan Thanh Giản rằng chúng ta còn nghi ngờ cho tới khi có bằng chứng trái ngược lòng thành của chính phủ An-na-mít, rằng nếu ngày nay chúng ta cố gắng đưa dân An-na-mít lên hàng các dân tộc văn minh, chúng ta e là võ trang cho chính kẻ thù của chúng ta, rằng chúng ta sẽ không bao giờ đi vào con đường ấy trước khi có được những bằng chứng hiển nhiên của lòng thành của họ.

Phan Thanh Giản mới hỏi tôi chúng ta còn muốn những bằng chứng nào ngoài bằng chứng đã được trưng bày bằng sự thi hành triệt để hoà ước. Tôi bèn trả lời ông : « Nếu, như ngài nói, ba tỉnh ở trong một tình trạng nghèo nàn, nếu chính Huế nhận chúng là nô lệ và phiên thuộc của Pháp, thì có phải hay hơn là giải quyết thẳng tình trạng dở dang này, nhường ba tỉnh tội nghiệp ấy đi, và ký kết trên căn bản ấy một hiệp ước mới sẽ phê chuẩn và nhìn nhận sự kiện ấy, mà chính ngài cũng cho là một việc đã thành ? Sự tự ý nhượng một lãnh thổ nằm dưới quyền của chúng tôi, theo tôi, sẽ được chính phủ Pháp coi như bảo đảm cho ý hướng thành thực và ngay thẳng của chính phủ An-na-mít. Khi đó tôi chắc chắn là chính phủ Pháp sẽ từ bỏ cái chính sách ngờ vực đã làm yếu chính phủ An-na-mít quá nhiều. Trái lại, chính phủ Pháp sẽ được lợi với sự thịnh vượng của một vương quốc đã thực sự trở thành một nước bạn ; chính phủ Pháp sẽ bảo đảm an ninh cho vương quốc ấy và ngăn ngừa không cho các cuộc nội loạn, mà chính ngài biết là thiết bách, làm cho vương quốc này xuống thấp hơn vương quốc Cao-mên, và làm nó trở nên miếng mồi ngon cho quốc gia nào nhòm ngó nó đầu tiên. » – « Nhưng, Phan Thanh Giản đáp lại, tôi chỉ thấy ở đấy những điều kiện nặng nề đối với chúng tôi, còn các ông thì không hiến cho chúng tôi một sự đền bù chắc chắn và cụ thể nào. » Tôi trả lời ông : « Ngài quên rồi sao rằng xứ Bắc-kỳ đang ở trong một tình trạng phiến loạn thường xuyên, rằng sự nổi loạn ở đó chỉ được đàn áp chứ không bao giờ được dẹp tắt, rằng ngày mà một nắm quân lính Âu Tây và vài khí giới được đưa vào đó, dân An-na-mít sẽ phải mất vương quốc phong phú ấy ? Ngài không biết chăng là người Tây-ban-nha muốn chiếm lấy xứ ấy, nhưng nước Pháp đã không bao giờ chịu ? Ngài không coi ra gì sự xá miễn món chiến phí bồi khoản mà Tự Đức còn phải trả cho chúng tôi hay sao ? Ngài cũng không coi ra gì hết sự trừng phạt bọn hải tặc phá hại các bờ biển và làm đói đế quốc ? Chắc ngài tưởng rằng các chiếc tầu chúng tôi sẽ dùng để quét sạch bọn cướp biển ấy không tổn ải chút nào và các máy dùng để chạy những tầu ấy không cần tới tiền bạc ? Ngài thử xét xem các chiếc tầu xấu các ngài mua ở Hương-cảng đã tốn bao nhiêu tiền và tính xem các sự hi sinh của chúng tôi sẽ tới đâu một khi các lợi ích của các ngài phù hợp với lợi ích của chúng tôi. Sau hết, ngài phải suy nghĩ rằng, nếu người Pháp muốn được ba tỉnh, họ có thể chiếm lấy chúng bằng vũ lực, không phải mất một trong những đền bù thật thụ mà một hiệp ước mới chắc chắn sẽ dành cho các ngài. »

Phan Thanh Giản mới cho tôi hân hạnh được biết rằng, nếu một ngày kia một sĩ quan Pháp tới trú tại Huế, ông muốn người ấy phải là tôi. Tôi vái chào lời khen ấy và đáp lại : « Aubaret ». Ông cả cười và, vì bữa cơm tối đã dọn, chúng tôi chấm dứt cuộc đàm thoại ấy và vị quan già vui vẻ nâng ly rượu để giải phiền, đến nỗi phải dựa vào tay Cha Marc để loạng choạng trở về thuyền của ông…

IV.– CÁI CHẾT CỦA PHAN THANH GIẢN
Trung-tá Ansart gửi Tổng Tham-mưu-trưởng Reboul.
Vĩnh-long, 4-8-I867.
Thiếu-tá thân mến,

Chúng tôi đã đạt đến chung cục bất hạnh của tấm bi kịch tự độc sát của Phan Thanh Giản. Ông ấy đã chết tối hôm qua, và thi hài của công đã được đưa ra ngoài thành sáng nay. Ông ấy sẽ được mai táng ở Kebon (cố hương của Phan Thanh Giản) trong vài ngày sắp tới đây.

Chúng tôi không khỏi bị xúc động nhiều vì sầu cảm trước cái chết của vị lão thành phi thường ấy, và tôi chắc rằng sầu cảm này sẽ được chia xẻ bởi tất cả những ai được biết ông ta. Ông ta đã tự tử với một ý chí quả quyết lạ lùng. Sau khi đã chuẩn bị thể xác cho sức tàn phá của độc dược bằng một sự giảm thực kéo dài hơn mười lăm ngày, ông bình tĩnh trù liệu mọi điều, cho mua quan tài của ông và tang phục cho gia thất và đầy tớ, sắp đặt tang lễ cho tới những chi tiết nhỏ nhặt nhất và trối lại cho con cái ông những lời khuyên khôn ngoan và chính trực. Ông khuyến khích họ nên ở lại với người Pháp, nhưng không nên nhận một chức vụ nào của Pháp cả. Họ phải sống trong đất đai của họ, với tư cách những người chuộng hòa bình, ngay thực mà qui phục nước Pháp, không bắt tay vào chính trị ngoài sự khuyên nhủ hoà bình và cần lao khắp mọi nơi. Còn đối với các cháu nội của ông, không bị ràng buộc bởi cùng những lý do bất tham dự, ông dặn dò phải nhờ người Pháp chăm nom chúng và, vài ngày trước khi thi hành quyết định trí mệnh của ông, ông bày tỏ với tôi ý muốn giao cho tôi vài ngàn quan để đài thọ các phí tổn cho sự giáo dục các đứa trẻ này ở Saigon.

Khi ấy tôi không hiểu ý nghĩa của các lời nói của ông, mà chắc Cha Marc đã thấu rõ nếu Cha không vắng mặt, và mọi người đều tin tưởng rằng cha Marc cùng tôi sẽ có đủ ảnh hưởng đối với ông để khuyên can ông đừng thi hành quyết định tự tử. Nhưng số mệnh đã xen vào ; tôi đã không hiểu tí gì về những lời của ông, được nói với tôi qua miệng của một viên thông ngôn.

Khi Cha Marc đến đây, Phan Thanh Giản không còn đả động đến quyết định tuyệt vọng của ông nữa. Sáng mùng một tháng 8, ông hợp thức hoá vài văn kiện liên quan tới ấp công-giáo. « Gấp lên, các người », ông nói. Vào lúc II giờ, ông uống thuốc độc trước mặt các con ông và các người thân cận. Khi chúng tôi được báo tin vào lúc 2 giờ thì đã quá muộn. Ông còn có thì giờ để ôm hôn Cha Marc và tôi, rồi bắt đầu hấp hối. Ông y sĩ ngoại khoa Le Coniat đã tranh đấu với thuốc độc bằng một trí sáng suốt và một sự tận tâm đã cho phép chúng tôi còn có một tia hi vọng cho tới chiều hôm qua, nhưng không có chi đủ thế lực để cứu sống cụ lão mà thân thể nhiễm đầy á phiện, và đã bị quật ngã bởi trạng thái đói lả và các mối sầu não…

5-8-I867… Cha Marc cho rằng, theo những câu chuyện hàn huyên trước đây, cụ già lương hảo này chắc đã theo đạo Thiên-chúa ngay sau khi ông loại trừ được chính sách và áp lực của các ông quan khác. Chính những vị này thật đã đẩy ông tới tuyệt vọng. Điều này đúng sự thật đến nỗi mà lúc các ông quan còn ở lại Vĩnh-long, ông đã khăng khăng từ chối mọi thứ thuốc men, và chúng tôi đã phải gần như ép buộc ông và lợi dụng một trong những lúc ông ngất đi mới khiến ông nuốt được một chút thuốc giải độc. Nhưng, ngay khi ông được biết là các quan đã bỏ đi, và chỉ còn có mình ông với chúng tôi, thì ông đã thuận mọi điều. Than ôi, khi đó đã quá muộn ! Và điều cho thấy rõ tư tưởng của ông đã theo một chiều tốt đẹp hơn, là hai lần ông hỏi Cha Marc : « Tôi sẽ có thoát khỏi được chăng ? » Rủi ro thay, thiếu tá biết chung cục như thế nào…


Nguyễn Thế Anh
NhatBook

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

Post Bottom Ad