Miền Đông Nam Phần và miền Châu thổ Cửu Long: môi trường thiên nhiên và môi trường nhân văn - Người Đưa Tin -->

Breaking

Post Top Ad

Thứ Hai, 25 tháng 5, 2020

Miền Đông Nam Phần và miền Châu thổ Cửu Long: môi trường thiên nhiên và môi trường nhân văn


Sau đây là diện tích các tỉnh ĐBCL:

Tên các tỉnh Diện tích (km2)

Long An (Tân An) 4 355
Đồng Tháp (Cao lãnh) 3 391
An Giang (Long xuyên) 3 493
Tiền Giang (Mỹ Tho) 2 377
Bến Tre 2 225
Vĩnh Long 1 487
Trà Vinh 2 363
Cần Thơ 3 022
Sóc Trăng 3 138
Kiên Giang (Rạch giá) 6 358
Bạc Liêu 2 485
Cà Mau 5 204

Những hải đảo phải kể đảo Phú Quốc, đảo Thổ chu trong vịnh Thái lan cũng như đảo Côn Sơn và quần đảo Trường Sa ở biển Đông.

2. Các sinh hệ chính

Sau đây là các sinh hệ chính:

2. 1. MĐNP

Diện tích tự nhiên của MĐNP là 3 351 100ha. MĐNP gồm những vùng đất cao, dễ thoát nước, có cao độ trung bình 50-150 mét và gồm các đất phù sa cổ sinh phần lớn là đất xám bạc màu (Bình Dương, Tây Ninh, Long Thành, Biên Hoà) và đất đỏ có nhiều ở Gia Kiệm, Bình Long, Phước Long…

Trong MĐNP, còn có vài hòn núi nhô lên như núi Bà Đen ở Tây Ninh, núi Châu thới gần Biên Hoà và núi Chứa Chan (dân địa phương gọi là núi Gia Ray) cao 839 mét gần Xuân Lộc. MĐNP, ngoài người Kinh, còn nhiều sắc tộc thiểu số như người Mạ, Cho-ro, Rag Lai, Tày, Thái, Dao (3 sắc tộc này di dân tự do các năm gần đây), Sê-tiêng, Châu-ro, Mơ-rông.

2. 2. ĐBCL

Diện tích tự nhiên của ĐBCL là 3 900 000 ha nghĩa là rộng gấp 3 lần đồng bằng sông Hồng, nếu tính riêng đất trồng trọt bằng 37% của cả nước.

ĐBCL là vựa lúa lớn của cả nước vì năm 1998 đã sản xuất được trên 15 triệu tấn gạo. Khác với đất cao ở MĐNP, ĐBCL trái lại gồm toàn đất thấp, khó thoát nước, nên kinh rạch ngổn ngang. Cao độ trung bình 4-10 mét và gồm những loại đất phù sa, đất phèn, đất mặn ven biển; trong ĐBCL còn có vài hòn núi nhô lên như Núi Sam, núi Sập phía nam Châu Đốc. ĐBCL, ngoài người Kinh, còn có người Khơ-me (Trà Vinh, Sóc trăng, An Giang) và người Chăm vùng Châu Đốc.

Qúa trình trầm tích trong các môi trường khác nhau như nước mặn, nước lợ và nước ngọt nên có hình thành cũng 3 cấu trúc hình thể là vùng duyên hải, vùng đồng trủng phèn chua và vùng đồng lụt phù sa, đó là chưa kể các núi vùng Châu Đốc. Từ đó, có thể chi tiết hoá thêm về các sinh hệ như sau:

a-Vùng đất phù sa nước ngọt ven sông Tiền, sông Hậu và giữa 2 sông này: 1. 2000. 000 ha, chiếm gần 25% diện tích.

b-Vùng thềm phù sa cổ dọc biên giới Việt-Cambodia: 3%

c-Vùng đồng bằng ven biển có:

- vùng ven biển cao: 700 000 ha, chiếm 18% diện tích ( phù sa nhiễm mặn ven biển Đông như Trà Vinh, Càng long, Mỏ Cày, Bình Đại, Chợ Gạo, Bến Lức, Cần Giuộc.

- vùng ven biển thấp, còn gọi vùng trũng trung tâm bán đảo Cà Mau, có 648 000 ha chiếm 17%.

- vùng trũng ven biển tức vùng rừng U Minh có gần 200 000ha chiếm 5%.

- vùng ven biển ngập triều có 216 000 ha chiếm 5. 4% diện tích ĐBSCL.

d-Vùng trũng có:

- vùng trũng Đồng Tháp Mười có 414 000 ha chiếm 10. 4% diện tích.

- vùng trũng Hà Tiên có 217 500 ha chiếm 3. 5% diện tích.

e- Vùng núi và đồi thấp tức vùng Thất sơn có 417 000 ha.

Như vậy, ta thấy ngay hai đơn vị khác nhau về mặt đất đai, khí hậu và từ đó sử dụng đất đai cũng khác nhau: nếu MĐNP trồng caphê, cây điều, caosu thì ĐBCL cây lúa là cây trồng trọt chính, ngoài ra có vài nơi chuyên canh cây ăn trái tạo nên cái thường gọi là văn minh miệt vườn.

Tuy tài nguyên thiên nhiên cả hai miền nói trên (tài nguyên đất, nước, khí hậu) khá dồi dào, nhưng mức sống dân chúng, đặc biệt vùng nông thôn, còn nghèo nàn vì GNP trung bình cho mỗi người trong mỗi năm chỉ trên dưới 250 USD mà thôi.

3. Lịch sử hình thành địa chất

Muốn tìm hiểu lịch sử vùng đất đề cập đến trong bản tham luận này, ta hãy đi ngược lại dòng địa chất để từ đó hiểu tại sao có các giồng biển (giồng Trà Vinh, giồng Ông Tố...), tại sao có những vùng phèn rộng lớn và vùng mặn của ‘quê hương em đất mặn đồng chua... ’

Trải qua một cuộc bể dâu...

Lịch sử địa chất miền châu thổ Cửu long, so với nhiều vùng khác của dất nước ta, thì còn non trẻ lắm. Tuy nhiên cần tìm hiểu lịch sử địa chất của đồng bằng, trong bối cảnh chung của toàn vùng.

a/ móng đá nguyên thủy

Móng đá nguyên thủy (socle originel) gồm các phiến thạch và sa thạch thời đại Trung sinh (mésozoique) ở đồng bằng Nam bộ. Vào đệ tứ kỷ, phía đông của đồng bằng này được nâng lên cùng lúc với các rặng núi nam Trung bộ. Trong khi đó, phía Tây đồng bằng lại bị lún sâu xuống, tạo ra một vịnh có nhiều đảo nhỏ. Bờ biển củ của vịnh này chạy dài từ Battambang đến Kratie (Kratie trên sông Mekong ở Cao Miên). Cùng lúc có sự nâng lên của MĐNP thì macma bazan phun lên, với tuổi đời còn non trẻ, tuổi Pleistocen muộn-Holocen sớm bao phủ các phù sa cổ vừa được nâng lên. Các đá hoa cương tạo ra các núi Chứa Chan (858m), Bà Rá ở Phước Long (736m), Núi Bà Đen (936 mét) ở Tây Ninh.

Lớp phù sa cổ sinh cũng như các phún xuất bazan bao phủ lớp này kéo dài đến Kompongcham và Kratié. Đồng bằng châu thổ (plaine deltaique) được hình thành tại các vùng sụt võng quan trọng theo các đứt gãy sâu vào cuối đệ tam, đầu đệ tứ kỷ (pliocène-pleistocene) tạo ra 1 châu thổ củ.

b/. Biển tiến, biển lùi trong kỷ đệ tứ.

Trong bốn kỷ địa chất thì kỷ Đệ Tứ quan trọng nhất vì sự xuất hiện của loài người và trong kỷ này, nhiều đồng bằng phù sa xuất hiện. Có 2 giai đoạn Pleistocene và Holocène trong kỷ Đệ Tứ này.

Chỉ kể trong kỷ Đệ Tứ này, đã có đến 4 thời kỳ băng giá, mỗi thời kỳ lâu cả 100 000 năm, xen lẩn các thời kỳ tan băng mà mỗi thời kỳ lâu chừng 15 000 năm. Lúc băng giá lần cuối (thứ tư), thể tích nước bị co rút lại và mực nước biển bị hạ xuống (biển lùi hoặc biển rút). Vùng châu thổ Cửu long trước kia là một vịnh biển; chỉ sang kỷ thứ tư, thời Pleistocene, trên 1 triệu năm trước đây, có thời kỳ băng giá, nước biển xuống sâu đến hơn 120 mét. Do đó bờ biển Vietnam lúc bấy giờ không phải là bờ biển hiện nay vì lúc đó, miền Châu thổ Cửu long dính liền với Indonesia.

Sau thời kỳ băng giá lần cuối, cách đây 12 000 năm, tức đầu thời kỳ Holocen, thời kỳ tan băng hiện nay khởi đầu với nhiệt độ tăng dần trong Bắc bán cầu...

Lúc tan băng, các khối băng giá rất dày bắt đầu rút về miền Bắc cực, tạo nên những suối, sông bào mòn cảnh quan tạo ra các bực thềm…; trong giai đoạn tan băng thời Holocen, mực nước biển dâng lên vì nước các khối băng hà tan ra ( biển tiến). Trong giai đoạn này, mực nước biển dâng lên, nhiều ngọn núi trong Vịnh Bắc bộ bị bao vây bởi nước dâng cao thành các hòn đảo như rải rác trong vịnh Hạ Long ngày naỵ Biển lấn vào giữa đảo Hải nam và Bắc bộ tạo ra vịnh Bắc Bộ còn ở phía nam thì lấn vào đến tận Biển Hồ ở Campuchia và tạo ra vịnh Nam bộ có bờ biển chạy dài từ Battambang đến miền Đông Nam phần như Hố Nai, Trảng Bom hiện nay. Đồng bằng hoá thành vùng biển và đầm lầy, nên có nhiều đất hữu cơ, nhiều than bùn do xác thực vật bị vùi lấp, nén chặt dưới các lớp bồi tích mới (than bùn vùng U Minh); người cổ phải từ từ di chuyển lên các vùng đồi núi như Miền Đông Nam phần hiện naỵ Thực vậy, trong đất đồng bằng, từ 80-150 cm, hiện ra những vết tích của các sinh vật bể xưa còn để lại (vỏ sò, ốc, hàu...).

c/. Sự hình thành châu thổ: rút lui của biển và trầm tích phù sa.

Sau một thời gian tồn tại ở mức cao 4-5 mét như mực nước biển cổ ở vùng đá vôi Hà Tiên cho thấy rõ, biển bắt đầu rút, lúc đầu ở độ cao 3 mét và sau đó dừng lại lâu hơn ở mức cao 2 mét (Fontaine 1972). Người cổ theo nước rút mà xuống đồng bằng, ở các giồng ven biển tức các cồn cát duyên hải hay các giồng ven sông Tiền, sông Hậu. Vịnh Rạch Giá -nguyên là cửa sông Hậu ngày trước-lúc bấy giờ còn ăn xa vào đất liền.

Châu thổ Cửu long trước kia nằm dưới biển chỉ mới dần dần lồi ra khỏi mặt biển chừng 6000 năm nay mà thôi, nghĩa là thời kỳ Holocen muộn ( thời kỳ Holocen khởi đầu 10 000 năm trước công nguyên). Móng đá nguyên thủy trồi trụt là nguyên nhân làm thay đổi mức độ bồi tích của phù sa vốn rất lớn do sông ngòi chở đến. Nơi nào móng đá nâng lên thì lượng trầm tích phù sa ít đi, nhưng lại có diện tích trải rộng như bán đảo Cà Mau; nơi nào móng đá sụt lún thì lượng trầm tích phù sa rất nhiều nhưng bờ biển không tiến ra xa được như những giồng cát tăng trưởng khít nhau dọc miền Bến Tre, Gò Công, Trà Vinh cho thấỵ

Những phù sa cận đại có tuổi rất trẻ (quãng 2000 năm) và nằm giữa và dọc 2 nhánh sông Cửu long là do quá trình bồi phủ của các trầm tích do các trận lũ lụt đưa đến; càng xa sông, lớp phù sa càng mỏng dần. Do đó, ở các vùng xa sông, các trầm tích của các đầm mặn cổ rộng lớn thời kì đầu Holocen sẽ không bị che phủ nữa nên mới có những vùng đất phèn rộng lớn ở tả ngạn và hữu ngạn sông Cửu long.

Các chỗ trũng rộng lớn tức là dấu vết của các vùng biển sau khi biển rút đi như Đồng Tháp Mười, U Minh đều có một lượng lưu huỳnh khá lớn hình thành từ trầm tích hỗn hợp đầm lầy biển hay sông biển là nguồn sản sinh phèn ở ĐBSCL.

Trầm tích phù sa cổ (pleistocène) nằm dưới trầm tích phù sa mới (holocène) và chỉ lộ ra ở những địa hình cao; nói cách khác, trầm tích phù sa mới phủ phần lớn diện tích phù sa cổ và chiếm phần lớn diện tích Đồng tháp Mười.

Thực vậy, trong châu thổ hai sông Vàm cỏ ở Bến Lức, sâu chừng 7-8 mét, ta gặp lớp laterit thuộc phù sa cổ, còn ỏ Tân an, lớp laterit này sâu 15-20 mét.

d/ tóm tắt

Như vậy, theo lịch sử địa chất, ta có:

- móng đá nguyên thủy.

- phù sa cổ sinh được nâng lên, cùng lần với phún xuất bazan.

- một phần phía Tây bị lún xuống, tạo ra một vịnh biển.

- phù sa Cửu long bồi đắp trên vịnh biển, cùng với sự rút lui của mực nước biển để tạo thành châu thổ Cửu long ngay nay.

Lô xô đá dựng giữa dòng Trị An! Lúc này, tôi đang đứng giữa lô xô đá Trị An để cảm kích, suy tư về đá. Hai trăm triệu năm về trước, sóng biển Đông còn vỗ dưới trời Trị An! Một trăm tám mươi triệu năm cách ngày nay, nền móng đầu tiên của mảnh đất dưới chân tôi hình thành-đá phiến Lias thuộc hệ Jura!

Trải qua bao kỳ trồi trụt, thăng trầm của đất và nước, qua bao triều đại đá và núi lửa, đất Trị An nổi lên sông và rừng, nổi lên người và sử, nổi lên đạo lý và văn hiến, nhấn chìm đá. Rồi đá, xương cốt của đất đai, lăn vào da thịt, đùng đùng nổi lên thác sôi réo!

Đá nổi xôn xao Hoài Tố Hạnh

4. Khí hậu

Miền Nam khác với miền Bắc là không có sự phân mùa theo nhiệt độ vì nhiệt độ trung bình vừa khá cao (trên 25 độ), vừa ít biến thiên. ; nhiệt độ luôn luôn thích hợp cho cây trồng. Miền Nam chịu ảnh hưởng gió mùa tây nam: mưa từ tháng 5 đến tháng 11 và nhiệt độ tháng nóng nhất là 29 độ (tháng 4) và mát nhất là 25 độ (tháng 12). Tuy nhiên cũng có hai miền khí hậu chính khác nhau tùy theo MĐNP hay ĐBCL.

41. MĐNP

Khí hậu MĐNP vì tiếp giáp với cao nguyên Nam Trung phần nên mưa nhiều hơn và sương mù gần núi nhiều hơn. Saigon có vũ lượng trung bình cả năm khoảng 1 900 mm.

42. ĐBCL

Tuy mùa mưa xảy ra vào mùa hạ nhưng lượng nước mưa rất thay đổi theo năm ( có năm lũ lụt, có năm không), theo vùng: miệt Rạch giá Cà Mâu thì mùa mưa bắt đầu sớm hơn, vào cuối tháng 4, còn những nơi khác, lần lượt từ đầu đến giữa tháng 5. Thực vậy, miền Cà Mau vì gần xích đạo và chịu ảnh hương gió mậu dịch (trade wind) bắc xích đạo nên khí hậu vừa mưa nhiều hơn (2 250 mm, thay vì 2 000mm ở các nơi khác) với số ngày mưa cũng lớn hơn (160 ngày thay vì 125 ngày).

Miệt Gò Công và lân cận mưa thường bắt đầu cuối tháng 5, đầu tháng 6. Ngay trong mùa mưa cũng có số ngày không mưa (7-8 ngày) gọi là tiểu hạn. Khác với miền Trung, lũ lụt ở đây không phải do mưa tại chỗ mà là do mưa thượng nguồn từ trên Lào hay Kampuchea đổ xuống; do đó có khi ĐBCL dang bị hạn, ít mưa mà lại bị lũ!

Nhái theo truyện Kiều, lũ kia ‘cũng có ba bảy đường, có khi biến, có khi thường’: có khi không nhất thiết lũ lớn mà bị thiệt hại nhiều, lũ nhỏ bị thiệt hại ít; mức độ thiệt hại còn phụ thuộc vào thời gian xuất hiện lũ và thời gian kéo dài của mực nước đỉnh lũ. Lũ xuất hiện sớm hơn bình thường sẽ gây thiệt hại cho lúa hè thu. Lũ có thể lớn (mực nước đỉnh tại Tân châu, điểm đầu nguồn trên sông Tiền trên 4. 5 mét), nhưng lũ xảy ra đúng lúc thì không gây nhiều thiệt hại.

Thời kỳ hạn mặn và nước kiệt: hạn mặn từ tháng 12 đến nửa đầu tháng 3, tiếp theo hạn lớn đến trung tuần tháng 4 và trong mùa mưa cũng có hạn đầu tháng 8. Lũ lụt thường xẩy ra tháng 9-10.

5. Đất đai

5. 1 Đất đai MĐNP

MĐNP nhìn chung khá bằng phẳng, có 3 dạng địa hình: địa hình núi thấp (Núi Bà Đen, núi Chứa Chan), địa hình đồi lượn sóng, có cao độ từ 20-150 mét và địa hình đồng bằng. Các loại đất MĐNP có thể liệt kê như sau:

5. 1. 1 đất xám trên phù sa cổ sinh

Đất xám ở MĐNP chiếm 1 156 000 ha, phân bố ở các tỉnh Tây Ninh, Bình Dương, Đồng Nai. Đây là những loại đất nghèo chất hữu cơ, mức thủy cấp thường sâu, khả năng giữ nước kém, nghèo dinh dưỡng. Ngoài hoa màu phụ như đậu phụng, lúa rẩy, còn gặp các cây ăn trái như mảng cầu, mít, cây kỹ nghệ như điều... Các loại đất này được phân loại trong nhóm đất Acrisols (FAO).

5. 1. 2 đất đỏ

Đất nâu đỏ trên đá bazan thường gặp ở tỉnh Đồng Nai (Xuân lộc, Gia kiệm), Bình Long, Phước Long (Lộc ninh, Phú Riềng). Diện tích đất đỏ quảng 547 000 ha. Đất đỏ phì nhiêu hơn đất xám, sức giữ nước tốt hơn. Trên đất đỏ, ta thường gặp cây cao su, cây cafe, cây điều và cây tiêu. Phân loại trong nhóm Ferralsols.

5. 1. 3 đất đen trên đá bazan

Loại đất này rất phì nhiêu vì có khả năng trao đổi cation và độ no bazơ rất cao (nhóm Luvisols). Đặc biệt có nơi trên miệng núi lửa còn có đất đá bọt (Andosols).

5. 1. 4 đất phù sa

Đất phù sa gặp ven các dòng sông như sông La Ngà, sông Đồng Nai, sông Saigon, sông Bé (Fluvisols).

5. 1. 5 đất gley

Đây là các đất nằm trong các thung lũng rộng, dùng trồng thuốc lá, trồng rau cải, có thủy cấp cạn, không xa lớp đất mặt (Gleysols).

5. 2 Đất đai ĐBCL

Với diện tích tự nhiên của miền đồng bằng sông Cửu Long là gần 4 triệu ha, các nhóm đất chính được phân phối như sau:

Bảng 1. Phân phối diện tích các loại đất miền CTCL
đất cát 43 318 ha 1.10%
đất mặn 744 547 ha 19.10%
đất phèn 1 600 263 ha 41.10%
đất phèn tiềm tàng 421 867 ha -10.70%
đất phèn hoạt động 1 178 396 ha (25.1%)
đất phù sa 1 184 857 ha 25.25%
đất lầy và than bùn 24 027 ha 0.60%
đất xám 134 656 ha 3.50%
đất đỏ vàng 2 420 ha 0.06%
đất xói mòn 8 787 ha 0.20%

Xem vậy, có nhóm đất phù sa, đất phèn và đất mặn đã chiếm hơn 90% diện tích đất ĐBSCL; các nhóm đất khác chỉ chiếm một diện tích rất nhỏ.

5. 2. 1 đất cát giồng

Các loại đất cát giồng được thành lập do sóng biển và gió dồn cát lại mà thành. Giồng có địa hình cao hơn các đơn vị trầm tích khác kế cận. Những giải đất giồng chứng tỏ đó là những bờ biển ngày xưa, nay ở trong sâu vì châu thổ tiến dần ra biển. Có thể gặp nhiều giồng dưới dạng những hình vòng cung song song với bờ biển, rải rác ở các tỉnh Bến Tre, Trà Vinh (huyện Cầu Ngang, Trà Cú...). Càng gần biển thì tuổi các giồng cát càng trẻ hơn. Đất giồng thường cao ráo nên là nơi có tập trung nhiều làng mạc.

Đặc điểm của đất cát giồng là có tầng cát vàng; tuổi tuyệt đối của các giồng này dưới 6 000 năm.

5. 2. 2 đất mặn

Nhóm đất mặn có diện tích 744 547 ha, đứng thứ ba sau đất phèn và đất phù sa. Những đất mặn ở dưới rừng ngập mặn, bị ngập nước triều quanh năm; ngoài ra cũng có những đất mặn không bị ngập triều mà chỉ bị mặn trong mùa khô, thường có cao độ 0. 5-0. 8 mét. Đất mặn gặp các vùng duyên hải như ở huyện Bình Đại, Thạnh Phú, Ba Tri tỉnh Bến Tre, ở huyện Cầu Ngang, Trà Cú tỉnh Trà Vinh và dĩ nhiên các huyện tỉnh Cà Mau.

5. 2. 3 đất phèn

Nhóm đất phèn chiếm nhiều diện tích nhất và có thể gặp:

- vùng Đồng Tháp Mười

- vùng Tứ giác Long Xuyên; đất phèn được hình thành trên các trầm tích ở các cửa sông, vào giai đoạn biển lùi thời kỳ Holocene muộn, với các sản phẩm trầm tích đầm lầy nước lợ, giàu hữu cơ và có chứa một lượng lưu huỳnh khá lớn: đó là các điều kiện để thành hình đất phèn. Căn cứ vào tầng sinh phèn, tầng phèn và độ sâu xuất hiện của những tầng này trong phẫu diện đất, người ta phân biệt:

a/ đất phèn tiềm tàng là những đất chỉ có tầng sinh phèn trong phẫu diện đất, có vật liệu chứa phèn giàu sulfit, nguồn gốc phát sinh ra chất phèn trong đất và ở những vùng ngập nước sâu nhất và lâu nhất. Trong suốt quá trình trầm tích, các điều kiện yếm khí, sự hiện diện của thực vật ngập mặn đã tạo ra phèn ở dạng tiềm tàng. Phân loại đất đai gọi là Sulfaquents (Proto Thionic Fluvisols)

b / đất phèn hoạt động: một khi quá trình thoát thủy xảy ra, đất bị oxyhoá nên tầng pyrit chuyển dần thành tầng jarosite màu vàng rơm (sét cứt chuột), có pH dưới 3. 5. Phân loại đất đai gọi là Sulfaquepts (Orthi Thionic Fluvisols) Khi phèn bốc lên đất mặt mà màu trắng, nông dân gọi là phèn lạnh; khi nổi váng đỏ vì có chất sắt nhiều thì họ gọi là phèn nóng. Đất phèn hoạt động:

- ở trên địa hình cao hơn đất phèn tiềm tàng.

- thoát thủy nhiều hơn.

- đất chua hơn (pH thấp hơn).

Hàm lượng phèn biến đổi theo thời gian và không gian; thực vậy, nước phèn di chuyển từ vùng cao đến vùng thấp trũng, kéo phèn xuống tích tụ ở các rốn phèn tức những lòng chảo, hứng phèn của các vùng cao xung quanh. Trong mùa mưa, nước lôi phèn xuống các rốn phèn, liên tiếp dồn phèn xuống làm cho dung dịch phèn ngày càng đậm đặc nên các vùng này phải bỏ hoang. Hướng sử dụng các rốn phèn là kinh doanh lâm nghiệp (tràm) vừa cung cấp than củi, ong mật và nên tránh trồng các loại hoa màu trên các vùng rốn phèn.

5. 2. 4 đất phù sa được hình thành dọc theo các dòng sông lớn như sông Tiền, sông Hậu. Phù sa ven sông thường ở địa hình cao hơn là các phù sa ở xa sông; độ cao của các bờ sông phụ thuộc vào lượng phù sa và chế độ thủy văn của sông. Ta có thể phân biệt:

đất phù sa địa hình cao có thể trồng lúa 2-3 vụ hoặc lúa+màu.

đất phù sa địa hình thấp thường ngập nước và chua.

Các loại đất phù sa mới được hình thành cách đây chỉ khoảng 6 000 năm nay và không có lớp laterit hoặc sạn sỏi. Có giá trị lớn về mặt nông nghiệp: cây ăn trái, rau cải, hoa màu.

5. 2. 5 đất than bùn

Nhiều ở rừng U Minh, giàu lớp hữu cơ. Hiện nay, nhiều rừng tràm bị đốt cháy nên lớp hữu cơ cũng bị mất đi và do đó diện tích đất hữu cơ càng hẹp dần.

5. 2. 6 đất xám

Đất xám trên phù sa cổ (địa hình cao) thường gặp tại các vùng ranh với biên giới Campuchia như Mộc Hoá, Hồng Ngự, Đức Huệ... Trong đất loại này, có lớp laterit dưới sâu. Tuổi tuyệt đối dùng phương pháp C14 quãng 25 000 năm.

6. Thủy lợi

6. 1. MĐNP

MĐNP có các dòng sông sau đây chảy qua: sông Đồng Nai, sông Bé, sông Saigon. Sông Đồng Nai là con sông phần lớn trong lãnh thổ Vietnam, chỉ dài 480 km, phát nguyên từ cao nguyên Lâm viên Dalat và sau khi chảy qua cao nguyên Lâm Đồng, thì chảy vào MĐNP. Sông Đồng Nai, với lưu lượng 485m3 /giây (Trị An) có nhiều phụ lưu như sông La Ngà, sông Bé, sông Saigon. Sông Đồng Nai, chảy qua thành phố Biên Hoà, gặp sông Saigon tại Nhà Bè nên có câu ca dao:

Nhà Bè nước chảy chia hai
Ai về Gia Định Đồng Nai thì về


Sông Bé, phát nguyên từ cao nguyên M’nong, chảy qua tỉnh Bình Phước (Bình Long, Phước Long) và đổ vào sông Đồng Nai, có lưu lượng trung bình 264 m3 /giây (Phước Hoà).

Trên thượng lưu sông Saigon ở Tây Ninh có hồ nước thủy lợi Dầu Tiếng, rộng 27 000ha, có sức chứa 1. 5 tỷ m3 có khả năng tưới cho cây trồng, cho nước sinh hoạt, nước công nghiệp. Sông Saigon, lưu lượng nhỏ hơn 2 sông kia, với 85m3 /giây (Thủ Dầu một), chảy qua Bình Dương và đổ vào sông Đồng Nai ở gần Nhà Bè. Cửa sông chính của sông Đồng Nai là cửa Cần Giờ và Vàm Láng.

Về nước ngầm, vùng đất xám (Tân Uyên, Bến Cát) có nguồn nước dồi dào, độ sâu khai thác 25-70 mét, lưu lượng 15-20 lít/giây, chất lượng nước tốt. Các nơi có địa hình thấp trũng có nước cao áp. Vùng đất đỏ nguồn nước ngầm trữ lượng không lớn, độ sâu khai thác 50-100 m, lưu lượng 3-5 lít /giây, chỉ sử dụng phục vụ sinh hoạt và tưới diện tích nhỏ.

6. 2. ĐBCL

6. 2. 1. Nhận xét tổng quát

Đồng bằng này bằng phẳng với mạng lưới sông ngòi, kinh rạch ngổn ngang làm cho toàn vùng đều chịu ảnh hưởng của thủy triều hình thành những loại hình nơi mặn, nơi chua, nơi cả mặn lẫn chua, nơi bị ngập lụt và phèn nặng.

Nông dân có vô số từ ngữ để gọi kinh rạch: ngoài các chữ thông dụng như sông, ngòi, mương, lạch, kênh, bàu, ao, hồ, v. v còn có thêm rạch, xẻo, ngọn, rọc, lung, láng, bưng, biền, đầm, đìa, trấp, vũng, trũng, gành, xáng.

Môi trường sông nước với thủy triều lên xuống cũng có nhiều từ ngữ: ngoài chữ nước lớn (thủy triều dâng) và nước ròng (thủy triều hạ), còn có nước giựt, nước bò, nước nhảy, nước đứng, nước nằm.

6. 2. 2. Các sông chính

6. 2. 2. 1 Sông Vàm Cỏ.

Sông Vàm Cỏ có 2 nhánh:

- Vàm Cỏ Đông, còn gọi là sông Bến Lức, dài 250 km, phát nguyên từ bên Campuchia, chảy xuống Trảng bàng, Gò Dầu đến khu vực nhà máy đường Hiệp hoà, qua kinh Cầu An Hạ rồi chảy ngang qua cầu Bến Lức.

- Vàm Cỏ Tây

cũng phát nguyên từ bên Campuchia chảy qua Mộc Hoá đến Thủ Thừa rồi chảy qua cầu Tân An, gần châu thành Tân An. Cả 2 sông này gặp nhau ở phía đông quận Tân Trụ rồi dòng sông mở rộng để nhập vào sông Nhà Bè, đổ ra cửa Soài Rạp (cửa Vàm láng).

6. 2. 2. 2 Sông Cửu long và các kinh rạch

Sông Cửu Long rất dài, -4200km- và đã chảy qua nhiều xứ duyên hà như Nam Trung Hoa, Miến Điện, Ai Lao, Cao Miên trước khi vào lãnh thổ miền Nam Việt nam; khi chảy đến tỉnh Kompong Cham của Cao Miên thì dòng sông không đủ chuyển tải lưu lượng mùa lũ nên nhiều vùng của hai nước Miên-Việt bị ngập lụt, kéo dài 2-4 tháng. Đến Nam Vang, dòng chảy ấy hoà nhập với một nhánh lớn là sông Tonlesap nối với Biển Hồ. Hồ này có sức chứa trong mùa lũ đến 80 tỷ m3 nước. Lưu lượng trung bình của sông Cửu long là 10 700 m3/giây; vào mùa lụt cao, có khi lên đến 53 000m3/giây. Vào mùa kiệt, vào tháng 3-4, lưu lượng chỉ còn 2000 m3/giây.

Ngay điểm hợp lưu với sông Tonlesap trên đất Cao miên, sông Mekong chia làm 2 nhánh: nhánh chính ở phía đông đi về Neak Luang chảy vào địa phận Viet Nam ở Tân Châu, được gọi là sông Tiền và nhánh phụ phía Tây là sông Bassac đổ về Châu Đốc, được gọi là sông Hậu. Cả 2 dòng sông chảy ra biển bằng 9 cửa sông, dân gian ví như 9 con rồng nên mới có tên là Cửu long.
- Sông Tiền, chảy qua các thị trấn như Sadec, Vĩnh Long và đổ ra biển bằng 4 sông và 6 cửa là:

* sông Mỹ Tho, chảy ngang qua Mỹ tho và ra biển bởi Cửa Tiểu và Cửa Đại.

* sông Ba lai, chảy qua tỉnh Bến Tre, ra biển bởi cửa Ba lai.

* sông Hàm luông, chảy qua tỉnh Bến Tre và ra biển bởi cửa Hàm luông.

Cửa Hàm luông sông sâu sóng cả
Em thương anh nhiều mà chả dám theo
Thương anh đâu quản hiểm nghèo
Ngặt vì một nỗi, anh có con mèo theo sau.


* sông Cổ chiên chảy giữa 2 tỉnh Bến Tre và Trà Vinh ra biển bởi 2 cửa là Cổ chiên và Cung hầu.

- Sông Hậu, chảy qua các thị trấn như Châu Đốc, Long Xuyên và Cần Thơ và đổ ra biển qua 3 cửa sông là cửa Định An (về phía tỉnh Trà Vinh), Bassac (Ba thắc) và cửa Trần Đề (phía tỉnh Soc Trăng).

Nối liền giữa 2 sông Tiền và sông Hậu có nhiều kênh đào như kinh Vĩnh an (ở Châu Đốc), sông Vàm Nao (ở An Giang), kênh Lấp Vò (Vĩnh Long), sông Măng thít (Trà Vinh).
Còn riêng trong đồng bằng cũng còn có nhiều kênh đào khác quan trọng đóng góp vào sự lưu thông hàng hoá cũng như trị thủy. Đó là:

* kinh Vĩnh Tế (nối Hà tiên với Châu đốc).

* kinh Rạch giá-Long xuyên.

* kinh Phụng hiệp (Cà mâu-Cần thơ).

* kinh Cà mâu-Bạc liêu.

* kênh Xà no (Vị thanh-Cần thơ).

Ngoài sông Cửu long, trong đồng bằng còn có vài dòng sông khác như:

* sông Gành hào, Đầm dơi, Bồ đề (thuộc Cà Mau) và sông Mỹ thanh chảy ra biển Đông.

* sông Cái bé và Cái lớn chảy ra vịnh Rạch Giá.

* sông Trèm trèm, sông Ông Đốc chảy ra vịnh Thái lan.

Chế độ thủy văn của sông Cửu long khác nhau tùy mùa mưa hoặc mùa nắng:

- vào mùa mưa, nhờ có Biển Hồ nên nước dòng sông chỉ dâng lên từ từ và nhờ vậy, đồng bằng ít bị lụt; giống lúa nổi trồng các vùng An Giang, Kiên Giang có thể thích nghi với mực nước dâng chậm; tuy nhiên những năm mưa trên thượng lưu lớn, lưu lượng sông Cửu Long 25 ngàn m3/ giây, thì châu thổ bị ngập nước. Thời gian ngập lụt thường kéo dài từ tháng 7-8 đến tháng 11-12. Những vùng trũng như Đồng Tháp Mười thì lụt lâu hơn và bắt đầu sớm hơn. Trong vòng 25 năm qua, đồng bằng này bị nhiều lũ lụt lớn (1961, 1966, 1984, 1991, 1994). Với người nông dân, lũ lụt là tai hoạ nhưng cũng là tài nguyên. Nhờ lũ lụt, sông Cửu long kéo dài tuổi trẻ, ruộng đồng rửa sạch phèn, được thêm lượng phù sa màu mỡ và được mùa cá tôm quanh năm.

- vào mùa khô thì nước trong Biển Hồ lại đổ từ từ ra dòng chính cho đến hết tháng 12, đem theo muôn vàn cá con về miệt Cao Lãnh, Sadec, Long Xuyên, Châu Đốc làm giàu thủy sản nước ngọt ở đây; tuy nhiên khi lưu lượng sông nhỏ hơn 2000m3/ giây, - trong khi nhu cầu nước cho sinh hoạt châu thổ trong khoảng thời gian này là 4 tới 5 ngàn m3 /giây và nhu cầu ấy dự trù tăng gấp đôi vào giữa thế kỷ 21, - thì nước ngọt bắt đầu khan hiếm và khi dòng chảy sông đã yếu, nước biển theo thủy triều lấn sâu vào phía nội địa, các vùng ven biển bị nhiễm mặn không thể lấy nước cho trồng trọt được. Hiện nay nước mặn đã xâm nhập khá sâu vào nội địa rồi: đó là trường hợp nhiều vùng ở Sóc Trăng, Bến Tre, Gò Công vào mùa nắng, lưu lượng nước sông ít, nước triều biển Đông xâm nhập sâu vào nên các vùng này bị nhiễm mặn, không sản xuất lúa được.

Chất lượng của nước

Trong ĐBCL, có 4 loại nước khác nhau:

- Nưóc ngọt, nước phèn, nước lợ, nước mặn.

- Nước phèn là nước chứa nhiều sắt và nhôm, có nồng độ acid lớn nên không uống được.

- Nước lợ (nước chẻ hai) là nước pha giữa nước ngọt và nước mặn.

- Nước mặn là nước gần vùng cửa biển chứa nhiều clorua natri (ClNa).

Vào mùa nắng, lưu lượng dòng sông thấp nên nước mặn từ các cửa biển vào sâu trong nội địa hơn mùa mưa.

Thủy triều

Củng như nhiều nơi trên thế giới, miền biển châu thổ Cửu long có 2 thủy triều lên và 2 thủy triều xuống trong 24 giờ ( chế độ bán nhật triều), còn miền biển Bắc bộ chỉ có một lần thủy triều lên và một lần thủy triều xuống (chế độ nhật triều). Đó là vì có nhiều yếu tố khác như dạng bờ biển, chiều sâu đại dương.

Nước lên-nước xuống chi phối đời sống dân ven biển. Một chu kỳ biến động của mực nước-từ lúc nước biển rút xuống đến mức tối đa đến lúc nước biển lên cao đến mức tối đa kéo dài 15 ngày và được gọi là một con nước. Như vậy, mỗi tháng có 2 con nước.

Tuy miền châu thổ Cửu long có chế độ bán nhật triều (biển Đông) nhưng biên độ triều của hai lần không đều nhau: ta có nước lớn cao, nước lớn thấp, nước ròng cao, nước ròng thấp; như vậy, ở đây mỗi ngày 24 giờ có 1 lần nước lớn cao, một lần nước lớn thấp, một lần nước ròng cao, một lần nước ròng thấp. Nhìn nước lớn, nước ròng, nhìn cuộc đời sớm còn, tối mất, người ta ca rằng:


Bìm bịp kêu nước lớn anh ơi
Buôn bán không lời, chèo chống mỏi mê.


Trước khi đổi con nước, dòng sông ngưng hẳn, gọi là nước đứng:

Nước không chưn sao kêu bằng nước đứng
Cá không giò sao gọi con cá leo?

Mực nước thủy triều có ảnh hưởng lớn đến đồng bằng, từ chuyên chở trên sông rạch đến nông nghiệp. Nước triều cao sẽ dễ dàng lấn sâu vào nội địa và làm nhiễm mặn nước sông và đất đai. Tại vùng châu thổ Cửu Long, ảnh hưởng của thủy triều có thể lên đến Nam Vang, còn nước mặn ảnh hưởng nhiều vùng duyên hải như Bến Tre, Long An, Trà Vinh, Soc Trăng, Cà Mau…

7. Thảo mộc thiên nhiên

7. 1 MĐNP

MĐNP trước kia có nhiều loại rừng như cây dầu, cây bằng lăng, cây sao, gỏ nhưng nay bị đốn phá nhiều để trồng hoa màu, do sức ép dân số

7. 2 ĐBCL

Phải kể cây tràm (Melaleuca) vùng U Minh. Vào mùa khô, trái tràm rụng xuống đất và đến mùa mưa, cây tràm con đã lên xanh tốt. Cây tràm nhỏ và thấp hơn cây đước và thân cây thường vặn vẹo không thẳng đứng như cây đước. Những cây thân tương đối thẳng thì dùng làm cột nhà, cây tràm dùng làm cọc chống lún rất bền chắc. Gỗ tràm dùng làm cột nhà mà không bị mọt mối phá hư. Hoa tràm có vị thơm và nhụy hoa ngọt nên loài ong thường đến hút nhụy làm mật. Rừng tràm là nơi ẩn náu nhiều loài chim, cá đồng, chưa kể các động vật như trăn, rùa, khỉ, heo rừng. Rừng ngập mặn ven biển thì có cây đước (Rhizophora) phát triển rất nhanh tại các bãi bồi còn sình lầỵ Cây đước làm cột nhà, cắm trụ đáy trên các sông và ngoài biển khơi. Gỗ đước còn dùng làm mái chèo. Ngọn, nhánh đước dùng làm củi và thân cây đước dùng để hầm than: có hàng trăm lò than đước ở huyện Năm Căn ( Cà Mau). Vỏ đước dùng để nhuộm chài lưới và là nguyên liệu chế tanin phục vụ cho ngành thuộc da. Cây bần (Sonneratia acida), cây dừa nước (Nipa fruticans) mọc theo bờ kinh rạch. Cỏ bàng (Leipironia) dùng làm đệm. Những vùng đất bồi ngập mặn có lác dùng để dệt chiếu.

Đồng Bến Tre nhiều bưng nhiều lác
Đường về Ba Vát, nặng chĩu sầu riêng
Anh ra đi ba bốn năm liền
Sao không ở lại kết bạn hiền với em.


8. Sử dụng đất đai tại MĐNP và ĐBCL

8. 1 Sử dụng đất dai MĐNP

Trong các cây kỷ nghệ, có thể gặp cây cà phê, cây điều, cây caosu. Cây cà phê, thường trồng trên đất đỏ có giá trị xuất cảng rất lớn vì giá trị 1 tấn hạt cà phê tương đương với 10-12 tấn gạo. Cà phê chủ yếu trồng là cà phê vối (robusta) trồng ở Xuân Lộc, Bình Long, Phước Long trên đất đỏ.

Cây điều, còn gọi là điều lộn hột (Anacardium occidentale), được trồng để lấy hạt vì nhân hạt là 1 thực phẩm thơm ngon có giá trị xuất cảng cao: giá hạt điều thô hiện nay quảng 1 000 USD /tấn và giá nhân hạt điều ăn liền 6 000USD/ tấn. Trung bình 5 tấn hạt điều thô chế biến được 1 tấn hạt điều ăn liền. Tuy nhiên hiệu qủa kinh tế của cây điều không cao nếu so sánh với các loại cây ăn trái hay cà phê nên xu thế trồng điều bị giảm mạnh. Caosu có nhiều MĐNP vì trước đây, nhiều công ty cao su đã thiết lập các đồn điền. Tại MĐNP, có nhiều loại cây ăn trái như: chôm chôm (rambuttan), măng cụt (mangoustan), bưởi (bưởi Biên Hoà), mảng cầu dai (Vủng Tàu), sầu riêng (durian).

8. 2 sử dụng đất đai ĐBCL

Khi nói đến nông nghiệp miền châu thổ sông Cửu long, là ta nghĩ ngay đến lúa, vì lúa là nông sản chính trên các chân ruộng ở đây: lúa mùa, lúa nổi, lúa trồng mùa khô v. v. Cũng có những tiểu vùng nhiều vườn cây ăn trái, làm nên cái ta thường gọi là ‘văn minh miệt vườn’.

8. 2. 1 Lúa

Miền ĐBCL là vựa lúa của Viet Nam và cũng có thể nói vựa lúa của thế giới vì chính từ ĐBCL mà gạo được sản xuất nhiều nhất ở Viet Nam để tiếp tế cho miền Trung, miền Bắc và Saigon và cũng để xuất cảng sang các xứ Á châu (Phi luật Tân, Indonesia), Phi châu…

Lúa được bố trí tùy theo điều kiện đất đai, thủy lợi nên có thể có nhiều thời vụ như lúa mùa, lúa Đông Xuân, lúa Hè-Thu. Biện pháp canh tác lúa chủ yếu là sạ (gieo vãi), chứ không cấy như xưa, trong đó biện pháp sạ ướt (hạt giống được ngâm ủ cho nảy mầm, sau đó gieo trên đất dã được dánh bùn kỹ) chiếm ưu thế.

a/ Lúa mùa

Đây là lúa mùa mưa ; vụ lúa này thường bắt đầu từ tháng 5 và thu hoạch tháng 10-11 cho đến tháng 1-2 năm sau. Tùy điều kiện thủy lợi, nông dân dùng giống lúa mùa sớm (thời gian sinh trưởng 125-150 ngày), lúa mùa chính vụ (180-200 ngày) và giống muộn (225-250 ngày). Những chổ ngập sâu thì cấy lúa muộn, chỗ ruộng ngập cạn, dưới 0. 5 mét thì làm lúa mùa sớm.

Hiện nay, nhờ kỷ thuật sạ khô và việc du nhập các giống mới có năng xuất cao, chịu phèn mạnh, tương đối cao cây và nổ lực làm thủy lợi nên nông dân trồng lúa hè-thu bằng sạ khô rồi cấy vụ mùa địa phương (thu-đông) bằng giống lúa mùa sớm, năng xuất cao.

b/ Lúa nổi

Lúa nổi cũng là lúa mùa, nhưng đặc trưng là nó chịu ngập nước rất sâu: lúa nổi được sạ vào tháng 5 và cũng tùy mực nước rút sớm hay muộn mà nông dân gieo những giống lúa nổi thân cao ít hay thân cao nhiều. Sau vụ lúa nổi gặt vào tháng 12, nông dân tận dụng nước ẩm còn trong ruộng lúa để làm thêm hoa màu phụ. Có nơi khắc phục được sự ngập sâu của nước như Hồng Ngự thì nông dân còn trồng được 2 vụ lúa: lúa Hè-Thu (tháng 4 đến tháng 8) và lúa Đông-Xuân (tháng 12 đến tháng 3 năm sau).

c/ Lúa Hè-Thu

Đây là lúa làm ngay đầu mùa mưa nhưng do sử dụng giống mới, thấp cây, ngắn ngày để có thể thu hoạch được trước khi lũ sông Cửu long đến; ở vùng đất mặn, phải sạ lúa hè-thu trễ hơn vì phải chờ mưa xuống rữa chất mặn. Nói khác đi, lúa hè-thu là loại lúa mùa sớm địa phương.

d/ Lúa Đông Xuân

Đây chỉ là vụ lúa trái mùa vì làm trong mùa khô nên chỉ phát triển những nơi không bị mặn. Các vùng nước ngọt có thể dùng máy bơm lên ruộng để làm vụ này. Người ta sạ tháng 11-12 và thu hoạch tháng 2-3. Tại các vùng phèn, nông dân chờ khi nước rút còn bùn thì họ sạ hạt lúa đã ngâm ủ nẩy mầm (‘sạ ngầm ‘) để bùn phủ kín hạt, đồng thời đắp bờ để khống chế mực nước rút, như vậy một mặt là vừa nhanh, vừa tránh đất khô, phèn bốc lên.

8. 2. 2 Hoa màu (bắp, đậu, khoai lang...) Bắp trồng trên phù sa ven sông Tiền, sông Hậu và bắp là màu nhiều tiềm năng phát triển nếu muốn đẩy mạnh chăn nuôi theo lối kỷ nghệ. Càng ngày, nông dân càng sử dụng các giống bắp lai có năng suất cao hơn giống địa phương.

8. 2. 3 Rau cải: đây là rau cải hàng hoá trồng nhiều trên đất giồng hoặc đất phù sa đã thoát bớt nước nhờ trồng trên liếp. Phải kể các loại rau tươi như xà lách, rau diếp, xà lách son tức cresson, các loài cà chua, cà pháo, khổ qua tức mướp đắng, các gia vị như ớt, tỏi, hành, hẹ…

8. 2. 4 Cây ăn trái

Các loại cây ăn trái thường tập trung trên các vùng phù sa nước ngọt ít bị lụt, dọc sông Tiền, sông Hậu như Mỹ Tho, Vĩnh Long, Cần Thơ. Cây ăn trái thuộc miệt vườn như trên có dọc theo các sông, các bờ kinh rạch, các cù lao còn gọi là cồn như cồn Phụng, cồn Tân Long. Có thể kể: xoài (ở Vĩnh Long, Mỹ Tho), chuối, thơm (khóm) tại Long An, Kiên Giang, cam quít (tại Sadec, Bến Tre), nhãn (Bạc Liêu), đó là chưa kể vú sữa, xơ ri (Gò Công), bòn bon (Bến Tre).

Hai ta như sen mùa Hạ, cúc mùa thu
Như tháng mười hồng, tháng năm nhãn
Em theo chim, em đi về tháng tám
Anh theo chim cùng với tháng ba qua.

8. 2. 5 Cây kỷ nghệ

Cây kỷ nghệ được phân loại thành cây kỷ nghệ ngắn ngày (như thuốc lá) và cây dài ngày như cây mía trồng trên các liếp tại các vùng đất phèn (Long An), thơm, dừa…

Dừa nhiều ở Bến Tre và cho cơm dừa, cũng như các phụ phẩm khác như xơ dừa, gáo dừa, thảm nệm xơ dừa, than gáo dừa.

9. Triển vọng khai thác trên các loại đất có vấn đề

Tại ĐBCL, có nhiều loại đất có vấn đề: thực vậy, đất phèn thì nhiều độc tố như nhiều sắt, nhiều nhôm; đất mặn thì nhiều chất mặn; cả 2 loại đất này cần hệ thống đê chống lũ, rửa phèn, rửa mặn.

9. 1. Triễn vọng khai thác trên đất phèn

a. lịch thời vụ

Nguyên tắc là phải canh tác trong các giai đoạn thích hợp để tránh đỉnh cao của sự hoá chua trong đất và của sự thiếu hụt nước ngọt, đồng thời tránh thời gian lũ lụt. Thực vậy vào đầu mùa mưa, hàm lượng phèn ở tầng đất mặt tăng lên đột ngột nên cây cối lụi tàn, tôm cá chết.

Trên các vùng đất phèn, vào dầu vụ (cuối tháng 4), nông dân sau khi đốt đồng cho sạch cỏ dại, thì đất được cày bừa rồi họ ‘sạ khô’ với giống lúa sớm và bừa lấp. Với các cơn mưa đầu mùa, cây lúa nẩy mầm và khi phèn tăng lên đột ngột do mưa xuống nhiều thì cây lúa đã mạnh nên có thể kháng cự được các độc tố phèn. Có 2 giai đoạn rõ rệt trong kỷ thuật này:

1 lúc đầu sạ khô và tiêu nước mặt triệt để bằng mọi rãnh tiêu lớn nhỏ, chỉ giữ đất vừa ẩm nhờ mưa cho lúa sinh trưởng.

2 khi mưa đủ lớn thì đắp bờ đóng cống giữ nước lại trên đồng cho ngập chân lúa, tránh hiện tượng oxy hoá phèn. Còn phải sạ với giống lúa sớm là vì khi gặp lúc phèn nhiều trong đất thì cây lúa cũng đã có 3-4 lá, đủ mạnh để đủ sức vượt lũ cuối tháng 8 và thu hoạch trước khi lũ đến.

b. quản lý đất (soil management) và nước (water management)

b. 1 trên lúa

Ở những vùng có nhiều nưóc ngọt có thủy triều lên xuống (Bình Dương), nông dân chỉ cần đắp đê quanh ruộng, khi nước thủy triều lên, sẽ mở bọng cho nước sông vào và giữ nước này trên ruộng, sau đó sẽ cho chảy từ từ xuống sông khi nước thủy triều rút trong nhiều giờ để nước sông có thời giờ làm tan phèn và tan muối.

Ở những vùng không có nhiều nước ngọt mà chỉ trông cậy vào mưa thì công tác xả mặn, xả phèn đòi công phu hơn vì cần có tuyến đê bao quanh vùng để không cho nước mặn, nước phèn ở các vùng kế cận xâm nhập. Tuyến đê bao này cũng có tác dụng chống luôn lũ và sử dụng như con lộ để di chuyển; trong khu vực được bảo vệ, phải có kênh mương và hệ thống xả nưóc ra vô.

Sau đó làm đất kỷ, cày sâu xới đất lên ở các vùng không có tầng sinh phèn gần mặt đất. Chờ mưa xuống làm tan phèn, tan muối, nông dân mới tháo nước để xả mặn, xả phèn qua các miệng cống hay xuống các mương từ đó nước mặn, nước phèn rút vào ống bọng và theo ống chảy ra sông rạch. Khi có nhiều nước mưa thì ngăn giữ lại để bảo vệ lúa bên trong và sau khi thu hoạch lúa, họ xả cống để cho nước tự nhiên ra vô để lấy phù sa.

Nhà nông còn khắc phục được đất phèn nhờ làm chủ nước trời và lũ: nhà nông tận dụng lớp đất thịt trên mặt, kết hợp với lợi dụng lũ và mưa, thậm chí với nước ngầm, để ếm phèn: Ém phèn là tạo điều kiện để có một lớp nước mặt trên đất phèn, tránh không cho đất tiếp xúc với không khí trong mùa khô, khiến quá trình oxy-hoá không thực hiện được, phèn hoạt động trở thành phèn tiềm tàng.

b. 2. cây trồng cạn

Những nơi cây lúa không thể canh tác được vì gặp đất phèn nặng, nông dân trồng cây rễ cạn. Liếp cao là đòi hỏi đầu tiên của việc canh tác hoa màu trồng cạn như sắn, khoai mở, mía trên đất phèn. Mỗi liếp rộng 3-5 mét, xen kẻ với những mương rộng 2-2. 5 mét, sâu khoảng 1-1m. 2 Các mương liếp thông với nhau và nối với kênh rạch tự nhiên qua cống đóng mở gọi là bọng. Bọng đóng lại để giữ nước vào mùa khô (tháng 2, 3, 4) và mở ra để thay nước củ khi thủy triều lên. Nhờ thủy cấp hạ xuống do lên liếp nên các độc tố của đất như nhôm, sắt được rửa trôi đi và sau đó, mới canh tác được ; trên liếp, trồng sắn, khoai mỡ, mía, khóm (thơm), dưới rãnh nuôi thủy sản. Qua nhiều năm canh tác, đất trên liếp bớt phèn ngày càng thuận lợi cho cây trồng sinh trưởng. Đối với những cây lâu năm như trồng xoài, nông dân còn đắp những ụ đất cao xung quanh gốc. Qua nhiều mùa mưa được rữa phèn liên tiếp, các mô cao ấy dần dần bớt phèn và sự phát triển cây cũng thuận lợi hơn. Có thể sử dụng gốc tháp kháng phèn như dùng cây bình bát để tháp cây mãng cầu xiêm (2 cây này cùng một họ thực vật).

Đến mùa khô ráo, phèn di chuyển từ các tầng sâu lên đất mặt do sự mao dẫn; phèn bốc hơi để lại những váng đất màu vàng rơm làm hại cây trồng; những váng này thường thấy dọc các đáy rãnh giữa các liếp. Nếu mặt đất được xới xáo thì hiện tượng mao dẫn không còn, phèn không bị bốc hơi và không thể lên tới đất mặt

Tóm lại, sự cải thiện việc cung cấp nước ngọt là vấn đề then chốt trong cải tạo đất phèn, nhất là đầu mùa mưa. Cần các kênh đào cung cấp nước ngọt.

9. 2. Triễn vọng khai thác trên đất mặn

Trên các vùng đất mặn duyên hải (Gò Công, Bến Tre, Trà Vinh, Cà Mau, Rạch giá...), phải làm đê ngăn mặn ven biển. Trên đê có thể là đường giao thông, dưới đê sẽ có nhiều cống xả mặn. Các cống phải được thiết kế theo kiểu tự động đóng vào lúc ngăn mặn và mở ra lúc thoát lũ. Nhờ vậy sản xuất nông nghiệp sẽ không lo bị nhiễm mặn nữa.

10. Các thủy sản: sự cọng sinh giừa người và thiên nhiên

10. 1. Cá

Cá phải kể nhiều loài: cá lóc, cá rô, cá trê, cá trạch, cá chài, cá dảnh, cá mè vinh, cá tra, cá vồ, cá chép, cá cốc, cá hu, cá bông lau, cá bạc bụng và cá linh. Loại cá này từ Biển Hồ, cư đầu mùa mưa, theo dòng nước phù sa đỏ nâu, trôi dạt xuống đồng bằng Cửu long, nhỏ li ti và theo lũ lụt tràn vào các ruộng đồng sinh sống. Khi mùa mưa chấm dứt, nước lũ rút dần ra sông, vào tháng 11, tháng 12 âm lịch và loài cá linh cũng dạt theo lội hàng bầy trên mặt nước, khiến ngư dân có một tài nguyên phong phú vào mùa nước xuống nàỵ Cá linh nhiều đến nổi phải làm nước mắm. Ngoài đánh bắt cá, nhiều nhà có nuôi cá vồ, cá tra. Ngoài ra, còn có nghề nuôi cá bè (Long Xuyên, Châu Đốc) vừa chi phí ít, vừa năng suất cao. Ngoài bờ biển có những hải sản như cá bạc má, cá mối…

10. 2 Tôm

Ngoài cá, ĐBCL còn có tôm như câu ca dao sau đây:

Chiều chiều quạ nói với diều
Cù lao ông Chưởng còn nhiều cá tôm


Tôm sứ, tôm hùm, tôm thẻ, tép bạc là các nguyên liệu để chế biến thành nhiều mặt hàng xuất cảng. Nuôi trồng dọc theo bờ biển như tôm-đước, tôm-lúa, tôm-dừa.

Tôm cạnh tranh với thực vật: muốn có năng xuất cao, cần thâm canh mà muốn thâm canh, phải phá hết thảm thực vật mà khi không có thảm thực vật thì vuông tôm bị ô nhiễm mặn và nhiệt vì nóng. Hiện nay có phong trào nuôi tôm với lúa.

Ruốc cũng là một loại hải sản dùng chế biến nước mắm.

10. 3 Ba ba tức là rùa nước ngọt; phổ biến ở Vietnam là Trionyx sinensis. Chuyên ăn động vật (cá, động vật không xương sống...) và đẻ trứng ở mé nước. Ba ba dễ xuất cảng vì chế biến với gia vị là món ăn ngon.

10. 4 Cua và ghẹ, nghêu sò

Cua đồng cũng là nguồn thức ăn giàu đạm ở Vietnam. Trữ lượng nhiều nhưng việc sử dụng thuốc trừ sâu trên diện tích rộng đã làm hư hao tài nguyên cua đồng tại nhiều nơi. Ngoài cua đồng còn có cua biển, nghêu, sò huyết. Ở Bến Tre, nghêu tập trung thành từng bãi rộng ven bờ biển; ruột nghêu dùng làm thực phẩm, vỏ nghêu dùng nung vôi bón ruộng. Rươi cũng là một loại hải sản dùng làm nước mắm, có trong các rừng cây mắm ở Thạnh Phú, Bình Đại.

10. 5 Ếch thì có:

Ếch đồng phổ biến ở đồng ruộng Viet Nam (Rana tigrina) rất có ích vì thịt ăn thơm ngon và đùi ếch đông lạnh dễ xuất cảng; hơn nữa bắt được các côn trùng trong ruộng.

11. Môi trường nhân văn

a/ thành phần cư dân

Thành phần ngưòi Việt di dân vào miền châu thổ Cửu long thì nào là tù bị lưu đày, nào là đào binh hoặc là bần cố nông nghèo khổ miền Trung:

Tới đây xứ sở lạ lùng
Con chim kêu phải sợ, con cá vùng phải kinh


Những cánh đồng cỏ lát mênh mông ‘muỗi kêu như sáo thổi, điả lội tựa bánh canh’ hoặc ‘khỉ khọt trên cây, sấu lội dưới nước’ là những vấn đề thực tế của người dân mới khai hoang. Ngoài người Việt di dân đến khai hoang, phải kể thêm người Hoa chống nhà Thanh ở Trung quốc (phong trào phản Thanh, phục Minh) đến Việt Nam và do chúa Nguyễn cho vào Nam khai khẩn đất hoang vào năm 1658 ở miệt Biên hoà (Cù lao Phố), ở miệt Mỹ Tho với Dương ngạn Địch, ở miệt Hà Tiên với Mặc Cửu sau này có con là Mạc Thiên Tứ tiếp tục thần phục triều đình nhà Nguyễn, ở miệt Bạc Liêu như câu ca dao sau đây:

Bạc Liêu nước chảy lờ đờ
Dưới sông cá chốt, trên bờ Triều Châu


rồi có người bản địa như người Chăm theo Hồi Giáo ở Châu Đốc đến dân Khmer ở Trà Vinh, Sóc Trăng... theo Phật giáo Tiểu thừa với các sóc, các phum, các chùa chiền Khmer.

b/ ảnh hưởng môi trường thủy lợi đến lối gia cư

Cũng là người Việt di dân, cũng là văn hoá nông nghiệp, nhưng khi người Việt vào vùng đất mới sình lầy vùng đồng bằng sông Cửu long, phải trải qua một quá trình thích ứng nên văn hoá cũng hơi biến đổi:

Người đi dao rựa dắt lưng
Ngó sông sông rộng, ngó rừng, rừng cao


Châu thổ Cửu long vì úng trủng nên các bậc tiền bối đã phải dày công khai phá và nhất là đào kinh để thoát bớt nước. Đào kinh có nhiều mục đích:

- hạ thủy cấp xuống để có thể trồng trọt.
- làm chất phèn độc (Alumin, sắt) có thể trôi đi.
- làm phương tiện giao thông: vừa là đường sá, vừa là kinh rạch.

Công việc đào kinh kéo dài từ lúc mới khai hoang như trào vua Minh Mệnh có kinh Vĩnh Tế nối liền Châu Đốc với Hà Tiên, trào Pháp thì có nhiều kinh mang tên người khởi xướng (kinh Tổng Đốc Lộc, kinh Lagrange...) hay mang địa danh vùng kinh đào chảy qua (kinh Thủ Thừa ở Long An, kinh Chợ Gạo ở Định Tường), thời Việt Nam Cọng Hoà có kinh Đồng Tiến, chưa kể vô số kinh ở địa điểm dinh điền Cái sắn ở Long Xuyên.

Môi sinh ngoại cảnh như vậy đã ảnh hưởng dến lối cư trú.

Ở miền Nam, nông dân sống theo kinh rạch, trải dài dọc bờ sông để tiện canh tác; các nhà sàn dựng lên ở những nơi bị úng trủng, ngập lụt hay gần các vùng có rừng ngập mặn, làng mạc không có cây đa cao ngất từng xanh, không có cổng làng, không gian xã hội rộng mở khác với các làng xã miền Bắc hay miền Trung: lối kiến trúc này làm lỏng lẽo các giây liên lạc của dân làng với làng xã. Chợ búa cũng trải dài mấy cây số dọc theo kinh rạch chứ không tập trung như các chợ miền Bắc, miền Trung.

c/. ảnh hưởng thủy lợi đến sử dụng đất đai

Miền đồng bằng sông Cửu Long ít bị lụt nên canh tác trồng trọt cũng khác miền Bắc.

Trong khi châu thổ sông Hồng có nhiều đê bao bọc để trị lũ lụt và tiến trình đắp đê, củng cố đê trải dài trong mọi triều đại thì miền châu thổ sông Cửu long không có đê, nhân dân chỉ trồng lúa theo nhịp nước lên xuống của nước: đó là lúa nổi thường gặp ở Châu Đốc, Long Xuyên. Nhờ Biển Hồ ở Kampuchea, nên nước vào ruộng, nước ra ruộng cũng từ từ nên những đơn vị gia đình nhỏ cũng khai thác lúa được, không cần những cộng đồng lớn.

Vì nhiều vùng còn là các trũng chịu ảnh hưởng của môi trường nước phèn, chua nên phải bỏ hoang hoặc phải canh tác trên các liếp như khóm, như mía để nước phèn có thể bị trôi đi; thủy triều cũng là một yếu tố thủy lợi người dân lợi dụng để cải thiện đất đai: thủy triều lên xuống 2 lần mỗi ngày giúp các chất phèn rửa trôi khi nước ròng; nhiều ruộng có cửa bọng giữ nước mưa và khi thủy triều xuống, nước sông trong kinh rạch thấp hơn mực nước trong ruộng nên nước phèn bị cuốn trôi đi.

d/. ảnh hưởng ngoại cảnh đến lối sống của dân

Vì tài nguyên dồi dào, dân ít phấn đấu ‘làm chơi ăn thiệt’ nên tính tình người dân cũng chất phác; tư duy ưa phóng khoáng, nói thẳng không quanh co; trải qua nhiều thế kỷ, nông dân tự do canh tác; rất ít nơi có đình làng.

e/. tài nguyên thiên nhiên trên cạn, dưới nước (cá, tôm...) ảnh hưởng đến văn hoá thức ăn: trong bữa cơm, nhiều món ăn luôn luôn có thêm nước dừa (thịt kho hột vịt nước dừa, chè đậu đỏ nước dừa...), phản ánh các ảnh hưởng của Đông Nam Á (Thái lan). Bữa ăn nhiều thủy sản như cá, mắm mà dặc biệt là mắm đủ loại, muôn hình muôn vẻ của vùng Long Xuyên.

Tản Đà có lần viết:

Hà tươi cửa bể Tourane,
Long Xuyên chén mắm, Nghệ An chén cà


f/. văn nghệ

Nói đến ĐBCL là nói ngay đến nước: thực vậy, kinh rạch ngổn ngang, bàu, ao, sông sâu sóng cả... Nhiều ca dao phản ánh kinh rạch chằng chịt với ghe thuyền buôn bán:

Chèo ghe sợ sấu cắn chưn,
Xuống bưng sợ đĩa lên rừng sợ ma.

Ghe anh đỏ mũi xanh lường,
Ở trên Gia Định xuống vườn thăm em.

Cái Răng, Ba Láng, Vàm Xáng, Xà No
Có thương em, anh mua cho một chiếc đò
Để em lên xuống thăm dò ý anh.

Anh đi ghe gạo Gò Công
Vô vàm Bao Ngược, gió giông đứt buồm.

Bước xuống bắc Mỹ Tho, thấy sóng xô nước đẩy
Bước lên bờ Rạch Miễu, thấy nước chảy vòng quanh
Anh biết chắc nơi đây là đất Châu thành
Sao tìm hoài không thấy trong đám bộ hành có em.


Miền châu thổ Cửu long có hát cải lương, hát vọng cổ, hò vè.

Hát cải lương chú trọng nhiều vào lời ca, tiếng hát và trong cải lương luôn luôn có hát vọng cổ.

Đèn treo ngọn ái, nước xoáy gò ân
Phải lương duyên thì xích lại cho gần
Kẻo mai kia vắng mặt, hai đứa thầm nhớ thương
Gặp anh vô cớ, em chẳng dám nhìn
Sợ chị lớn ở nhà, chị sanh tâm biến tính, hốt lửa lôi đình
Chỉ rình ngã ba, chỉ đón ngã bảy, không biết chết mình hay hại em.

Hò vè là một nét độc đáo khác của trong Nam với những câu đối đáp của trai gái chưa từng quen nhau trên các ghe dọc các dòng sông hoặc các điệu hò mộc mạc, khoan thai:

Chim buồn tình, chim bay về núi
Cá buồn tình, cá lủi xuống sông
Anh buồn tình, anh dạo chốn non Bồng,
Dạo miền sơn cước, xuống tới chốn ruộng đồng mới gặp được người thương.

Những lời ca ru em như:

Ví dầu cầu ván đóng đinh
Cầu tre lắc léo, gập ghềnh khó đi
Khó đi, mẹ dắt con đi
Con đi trường học, mẹ đi trường đời


Hoặc:

Gió đưa, gió đẩy về rẫy ăn còng
Về sông ăn cá, về đồng ăn cua


Hoặc:

Ra đi mẹ có dặn dò
Sông sâu đừng lội, đò đầy đừng đi.


Hò trên bộ (có chỗ còn gọi là lý) như hò cấy lúa, gặt lúa đêm trăng. Hò dưới sông thì có hò chèo ghe, đem theo chút thi vị trên sông nước bồng bềnh:

Nước chảy lơ đờ, đôi bờ xuôi ngược
Đường đi non nước rộng rãi, thênh thang
Ta vui đi khắp xóm làng
Mặc cho chớp biển, mưa ngàn vẫn vui.


Tình yêu trắc trở, người con gái phải bỏ người yêu để đi lấy chồng như trong bài thơ Hai sắc hoa ti gôn của T. T. K. H:

Nếu biết rằng tôi đã lấy chồng,
Trời ơi người ấy có buồn không
Nhưng chàng trai cũng không oán người yêu:

Ra đi anh có dặn rằng
Đâu hơn bậu lấy, đâu bằng đợi anh.


12. Các vấn đề môi sinh

Ngày nay, môi sinh miền Châu thổ Cửu long bị nhiều ảnh hưởng do nhiều nguyên nhân: dân số càng ngày càng đông, sự sử dụng những chất thuốc sát trùng không đúng liều lượng, xịt nhiều thuốc, dù sâu bọ chưa vượt qua ngưỡng độc hại, nhiều loại thuốc các nước tiền tiến không còn sử dụng nữa mà Việt Nam còn nhập cảng, các nhà máy không có biện pháp xử lý chất thải trước khi đổ vào sông, sự đô thị hoá không chủ động được.

Rùa càng lúc càng bị tàn sát; trước kia, có câu ca dao:

Thương thay cho kiếp con rùa
Dưới sông cõng hạc, trên chùa đội bia.


Rùa trước kia chỉ cõng hạc, đội bia, còn ngày nay rùa bị dân châu thổ Cửu long tàn sát hàng loạt cho các quán ăn nhậu; mai rùa, yếm rùa bán cho các tiệm thuốc Bắc. Rắn trong đồng để bắt chuột, mèo để bắt chuột, nhưng ngày nay, rắn, mèo cũng là đặc sản nhậu; ăn thịt mèo được gọi là ăn hổ đồng bằng. Cán cân sinh thái mất thăng bằng; nạn giết rắn, ăn hổ đồng bằng đã làm cho chuột sinh sản mạnh hơn, phá hoại ngũ cốc ngoài đồng, trong vựa.

Nhiều đập nước trên thượng lưu dòng sông Mekong, từ trên Vân Nam của Trung Quốc đến Lào, Thái đã khiến lưu lượng dòng chảy bớt đi và ít lụt hơn, nhiều cánh đồng trước kia gặp lụt lớn tràn lên nên chuột chết nhiều; ngày nay các bãi đồng không bị nước lụt tràn đến nên chuột sinh sản thêm.

Tại miền châu thổ, có nhiều bãi chim sống tại các rừng tràm; ven duyên hải nhiều loại cò: cò quắm, cò xám, cò nâu, cò vàng, cò trắng mỏ đen, cò trắng mỏ vàng, cò trắng đầu đỏ và nhiều chim các loài như cưỡng, sáo. Có thể sử dụng các bãi chim làm du lịch sinh thái, thay vì giết hàng loạt (overhunting) hoặc đốn rừng bừa bãi (overcutting) khiến chim muông không nơi trú ẩn.

Vì khai thác quá độ thủy sản trên sông (overfishing) nên tài nguyên cá cũng bị tổn hại nhiều. Nhiều vùng có mật độ đáy phân bố trên sông rất dày. An Giang, Đồng Tháp có những đáy dài đến 100-150 mét và các đáy có mắt lưới rất nhỏ nên nhiều cá con kể cả con ruốc cũng bị chết nên không thể làm giống để nuôi được. Đối với cào cũng vậy: mắt lưới nhỏ và cào sát đáy nên cũng lạm sát cá-tôm đồng thời gây cản trở lưu thông trên sông. Lại thêm cào điện làm mọi loài cá đều bị chết. Nhiều loài cá có giá trị trên sông trở nên hiếm như cá hô, cá tra dầu, cá bống tượng. Do đó, cần có các biện pháp như nghiêm cấm cào điện. Không những rắn, rùa càng ngày bị khan hiếm mà tại các quán ăn Saigon hiện nay còn các đặc sản như nai, mễn, heo rừng, ba ba... như vậy tài nguyên sinh vật trong rừng chẳng bao lâu sẽ hết.

Sự an toàn lương thực đòi hỏi tài nguyên nhiều hơn, trong khi nguồn nước là một vấn đề nan giải vì nước sinh hoạt, nước trồng tiả, nước dùng trong kỷ nghệ, nhà máy có giới hạn của nó. Bơm nước nhiều (overpumping) làm nước mặn xâm nhập sâu hơn vào đất nội địa, chưa kể dến cản trở lưu thông trên sông ngòi vì lượng nước thấp tàu bè trọng tải lớn không chạy được.

Đa dạng sinh học

Sự thâm canh lúa bằng cách bón phân đạm quá nhiều làm lúa dễ mẫn cảm đối với sâu bệnh; ruộng bón quá nhiều đạm tạo ra các ổ dịch bệnh cháy lá (Pyricularia oryzae), bạc lá (Xanthomonas oryzae), khô vằn (Rhizoctonia solani), và rầy nâu (Nilaparvata lugens).

Đa dạng sinh học giảm đi (ít giống lúa, ít giống hoa màu, ít thảm thực vật) gây thêm nhiều rủi ro về kháng sâu bệnh; hoá chất sử dụng quá liều cũng tăng các rủi ro.

Phá rừng vì 3 C

3 C từ ba chữ sau đây: conversion, consumption, corruption

Những sự so sánh bằng không ảnh, vệ tinh cho thấy diện tích rừng ngập mặn ven duyên hải biển Đông bị suy giảm nghiêm trọng: phá rừng nuôi tôm trong khi đó rừng này là nơi tôm cá sinh trưởng; phá rừng bừa bãi làm giảm luôn đa dạng sinh học.

Các rừng tràm bị đốn phá lấy củi; nước mặn làm hủy hoại rừng tràm vì tràm chịu vùng nước lợ mà thôi. Tóm lại phải có cân bằng sinh thái song song với lợi ích kinh tế xã hội vì khi cán cân sinh thái đã nghiêng rồi thì cũng khó lập lại cân bằng.

Nhiều diện tích rừng khai hoang để lấy đất trồng trọt do gia tăng dân số quá nhanh; do gia tăng dân số, do nhu cầu xuất cảng bằng mọi giá, phá rừng để nuôi tôm, để lấy củi; tham nhũng để cho giấy phép chuyên chở, cho giấy sử dụng đất đai, cấu kết với mọi cấp chính quyền. Tham nhũng nay đã trở thành một định chế trên mọi lãnh vực.

Diện tích rừng ngập mặn ven duyên hải biển Đông cũng như rừng tràm bị suy giảm nghiêm trọng. Phá rừng ngập mặn nuôi tôm trong khi đó rừng này là nơi tôm cá sinh trưởng; phá rừng bừa bãi làm giảm luôn đa dạng sinh học. Các rừng tràm bị đốn phá lấy củi; nước mặn làm hủy hoại rừng tràm vì tràm chịu vùng nước lợ mà thôi. Tóm lại phải có cân bằng sinh thái song song với lợi ích kinh tế xã hội vì khi cán cân sinh thái đã nghiêng rồi thì cũng khó lập lại cân bằng.

Các biện pháp pháp lý như luật môi sinh chưa đủ mà còn phải được áp dụng nghiêm minh.

Hiện tại và tương lai con người tùy thuộc vào sự bảo vệ tài nguyên vì giừa con người và thiên nhiên có các tác động qua lại; liên kết lợi ích con người và quan tâm đến môi sinh đó là phương cách hợp lý nhất để bảo vệ thiên nhiên; bằng cách đó, mỗi người cảm thấy có ý thức trách nhiệm về tài nguyên thiên nhiên và việc sử dụng đúng đắn.

Môi sinh và dân số cũng có tương quan chặt chẻ; thực vậy năm 1979, toàn châu thổ có 11 914 000 người và chỉ 14 năm sau (1993), đã tăng lên đến 15 531 600 người, nghiã là tăng thêm 2. 2% mỗi năm. (ở Pháp chỉ tăng 0. 3% mỗi năm và Trung Quốc 1. 4%). Với 2. 2% mỗi năm dân số sẽ xấp đôi sau 32 năm! đó là overpopulation.

Theo đà đô thị hoá và tăng gia dân số, nhịp độ chuyển từ đất nông nghiệp sang đất xây dựng (đất nhà ở, đất trường học...) ngày một nhanh do đó, đất nông nghiệp cũng sẽ giảm nhanh, kéo theo sự sút giảm diện tích canh tác cho mỗi lao động nông nghiệp.

Tại sao một ‘O ‘ lại đẻ ra 4 ‘U ‘?

Sự gia tăng dân số quá nhanh (Overpopulation) gây ra nhiều hệ quả như sau:

- nghèo đói, suy dinh dưỡng nhất là trên các trẻ em (Undernutrition).

- thất học nhiều, nhất là vùng nông thôn (Undereducation), không đủ ăn, thiếu dinh dưỡng thì làm sao tập trung trí óc vào việc học được

- diện tích canh tác nhỏ dần kéo theo tình trạng khiếm dụng nhân công (Underemployment) đang xảy ra ở thôn quê: phần lớn hiện nay chỉ làm việc dưới 200 ngày trong một năm; thời gian rảnh rổi được thi vị hoá dưới danh từ nông nhàn thì ăn nhậu say sưa.

- thành phần trẻ trong dân số rất cao, áp lực mỗi năm trên thị trường nhân công đè nặng, nhiều thất nghiệp (Unemployment).

13. Kết luận

Hình minh họa:

1. Tổng quan

Bài tham luận này bàn về các sắc thái của miền Đông Nam phần (MĐNP) và miền Tây Nam phần (dưới đây gọi là đồng bằng sông Cửu long, viết tắt là ĐBCL).

Miền Đông Nam phần gồm các tỉnh như sau, từ Tây sang Đông: Tây Ninh, Bình Dương, Bình Phước (tức Bình Long và Phước Long củ), Đồng Nai (tức Biên Hoà và Long Khánh củ), Bà Rịa-Vũng Tàu (tức Phước Tuy củ) và một thành phố lớn: Saigon.

Sau đây là diện tích các tỉnh MĐNP:

Tên các tỉnh Diện tích (km2)

Bình Dương (Thủ Dầu Một) 2 719
Bình Phước (Đồng Xoài) 6 814
Tây Ninh 4 030
Đồng Nai (Biên Hòa) 15 872
BàRịa-Vũng Tàu 2 047

Còn đồng bằng sông Cửu long ( ĐBCL) gồm 12 tỉnh như sau, từ bắc xuống nam và từ đông sang tây: Long An, Đồng Tháp, Tiền Giang, Bến Tre, An Giang, Vĩnh Long, Trà Vinh, Kiên giang, Cần Thơ, Sóc trăng, Bạc Liêu, Cà Mau.




Sau đây là diện tích các tỉnh ĐBCL:

Tên các tỉnh Diện tích (km2)

Long An (Tân An) 4 355
Đồng Tháp (Cao lãnh) 3 391
An Giang (Long xuyên) 3 493
Tiền Giang (Mỹ Tho) 2 377
Bến Tre 2 225
Vĩnh Long 1 487
Trà Vinh 2 363
Cần Thơ 3 022
Sóc Trăng 3 138
Kiên Giang (Rạch giá) 6 358
Bạc Liêu 2 485
Cà Mau 5 204

Những hải đảo phải kể đảo Phú Quốc, đảo Thổ chu trong vịnh Thái lan cũng như đảo Côn Sơn và quần đảo Trường Sa ở biển Đông.

2. Các sinh hệ chính

Sau đây là các sinh hệ chính:

2. 1. MĐNP

Diện tích tự nhiên của MĐNP là 3 351 100ha. MĐNP gồm những vùng đất cao, dễ thoát nước, có cao độ trung bình 50-150 mét và gồm các đất phù sa cổ sinh phần lớn là đất xám bạc màu (Bình Dương, Tây Ninh, Long Thành, Biên Hoà) và đất đỏ có nhiều ở Gia Kiệm, Bình Long, Phước Long…

Trong MĐNP, còn có vài hòn núi nhô lên như núi Bà Đen ở Tây Ninh, núi Châu thới gần Biên Hoà và núi Chứa Chan (dân địa phương gọi là núi Gia Ray) cao 839 mét gần Xuân Lộc. MĐNP, ngoài người Kinh, còn nhiều sắc tộc thiểu số như người Mạ, Cho-ro, Rag Lai, Tày, Thái, Dao (3 sắc tộc này di dân tự do các năm gần đây), Sê-tiêng, Châu-ro, Mơ-rông.




2. 2. ĐBCL

Diện tích tự nhiên của ĐBCL là 3 900 000 ha nghĩa là rộng gấp 3 lần đồng bằng sông Hồng, nếu tính riêng đất trồng trọt bằng 37% của cả nước.

ĐBCL là vựa lúa lớn của cả nước vì năm 1998 đã sản xuất được trên 15 triệu tấn gạo. Khác với đất cao ở MĐNP, ĐBCL trái lại gồm toàn đất thấp, khó thoát nước, nên kinh rạch ngổn ngang. Cao độ trung bình 4-10 mét và gồm những loại đất phù sa, đất phèn, đất mặn ven biển; trong ĐBCL còn có vài hòn núi nhô lên như Núi Sam, núi Sập phía nam Châu Đốc. ĐBCL, ngoài người Kinh, còn có người Khơ-me (Trà Vinh, Sóc trăng, An Giang) và người Chăm vùng Châu Đốc.

Qúa trình trầm tích trong các môi trường khác nhau như nước mặn, nước lợ và nước ngọt nên có hình thành cũng 3 cấu trúc hình thể là vùng duyên hải, vùng đồng trủng phèn chua và vùng đồng lụt phù sa, đó là chưa kể các núi vùng Châu Đốc. Từ đó, có thể chi tiết hoá thêm về các sinh hệ như sau:

a-Vùng đất phù sa nước ngọt ven sông Tiền, sông Hậu và giữa 2 sông này: 1. 2000. 000 ha, chiếm gần 25% diện tích.

b-Vùng thềm phù sa cổ dọc biên giới Việt-Cambodia: 3%

c-Vùng đồng bằng ven biển có:

- vùng ven biển cao: 700 000 ha, chiếm 18% diện tích ( phù sa nhiễm mặn ven biển Đông như Trà Vinh, Càng long, Mỏ Cày, Bình Đại, Chợ Gạo, Bến Lức, Cần Giuộc.

- vùng ven biển thấp, còn gọi vùng trũng trung tâm bán đảo Cà Mau, có 648 000 ha chiếm 17%.

- vùng trũng ven biển tức vùng rừng U Minh có gần 200 000ha chiếm 5%.

- vùng ven biển ngập triều có 216 000 ha chiếm 5. 4% diện tích ĐBSCL.

d-Vùng trũng có:

- vùng trũng Đồng Tháp Mười có 414 000 ha chiếm 10. 4% diện tích.

- vùng trũng Hà Tiên có 217 500 ha chiếm 3. 5% diện tích.

e- Vùng núi và đồi thấp tức vùng Thất sơn có 417 000 ha.

Như vậy, ta thấy ngay hai đơn vị khác nhau về mặt đất đai, khí hậu và từ đó sử dụng đất đai cũng khác nhau: nếu MĐNP trồng caphê, cây điều, caosu thì ĐBCL cây lúa là cây trồng trọt chính, ngoài ra có vài nơi chuyên canh cây ăn trái tạo nên cái thường gọi là văn minh miệt vườn.

Tuy tài nguyên thiên nhiên cả hai miền nói trên (tài nguyên đất, nước, khí hậu) khá dồi dào, nhưng mức sống dân chúng, đặc biệt vùng nông thôn, còn nghèo nàn vì GNP trung bình cho mỗi người trong mỗi năm chỉ trên dưới 250 USD mà thôi.




3. Lịch sử hình thành địa chất

Muốn tìm hiểu lịch sử vùng đất đề cập đến trong bản tham luận này, ta hãy đi ngược lại dòng địa chất để từ đó hiểu tại sao có các giồng biển (giồng Trà Vinh, giồng Ông Tố...), tại sao có những vùng phèn rộng lớn và vùng mặn của ‘quê hương em đất mặn đồng chua... ’

Trải qua một cuộc bể dâu...

Lịch sử địa chất miền châu thổ Cửu long, so với nhiều vùng khác của dất nước ta, thì còn non trẻ lắm. Tuy nhiên cần tìm hiểu lịch sử địa chất của đồng bằng, trong bối cảnh chung của toàn vùng.

a/ móng đá nguyên thủy

Móng đá nguyên thủy (socle originel) gồm các phiến thạch và sa thạch thời đại Trung sinh (mésozoique) ở đồng bằng Nam bộ. Vào đệ tứ kỷ, phía đông của đồng bằng này được nâng lên cùng lúc với các rặng núi nam Trung bộ. Trong khi đó, phía Tây đồng bằng lại bị lún sâu xuống, tạo ra một vịnh có nhiều đảo nhỏ. Bờ biển củ của vịnh này chạy dài từ Battambang đến Kratie (Kratie trên sông Mekong ở Cao Miên). Cùng lúc có sự nâng lên của MĐNP thì macma bazan phun lên, với tuổi đời còn non trẻ, tuổi Pleistocen muộn-Holocen sớm bao phủ các phù sa cổ vừa được nâng lên. Các đá hoa cương tạo ra các núi Chứa Chan (858m), Bà Rá ở Phước Long (736m), Núi Bà Đen (936 mét) ở Tây Ninh.

Lớp phù sa cổ sinh cũng như các phún xuất bazan bao phủ lớp này kéo dài đến Kompongcham và Kratié. Đồng bằng châu thổ (plaine deltaique) được hình thành tại các vùng sụt võng quan trọng theo các đứt gãy sâu vào cuối đệ tam, đầu đệ tứ kỷ (pliocène-pleistocene) tạo ra 1 châu thổ củ.

b/. Biển tiến, biển lùi trong kỷ đệ tứ.

Trong bốn kỷ địa chất thì kỷ Đệ Tứ quan trọng nhất vì sự xuất hiện của loài người và trong kỷ này, nhiều đồng bằng phù sa xuất hiện. Có 2 giai đoạn Pleistocene và Holocène trong kỷ Đệ Tứ này.

Chỉ kể trong kỷ Đệ Tứ này, đã có đến 4 thời kỳ băng giá, mỗi thời kỳ lâu cả 100 000 năm, xen lẩn các thời kỳ tan băng mà mỗi thời kỳ lâu chừng 15 000 năm. Lúc băng giá lần cuối (thứ tư), thể tích nước bị co rút lại và mực nước biển bị hạ xuống (biển lùi hoặc biển rút). Vùng châu thổ Cửu long trước kia là một vịnh biển; chỉ sang kỷ thứ tư, thời Pleistocene, trên 1 triệu năm trước đây, có thời kỳ băng giá, nước biển xuống sâu đến hơn 120 mét. Do đó bờ biển Vietnam lúc bấy giờ không phải là bờ biển hiện nay vì lúc đó, miền Châu thổ Cửu long dính liền với Indonesia.

Sau thời kỳ băng giá lần cuối, cách đây 12 000 năm, tức đầu thời kỳ Holocen, thời kỳ tan băng hiện nay khởi đầu với nhiệt độ tăng dần trong Bắc bán cầu...

Lúc tan băng, các khối băng giá rất dày bắt đầu rút về miền Bắc cực, tạo nên những suối, sông bào mòn cảnh quan tạo ra các bực thềm…; trong giai đoạn tan băng thời Holocen, mực nước biển dâng lên vì nước các khối băng hà tan ra ( biển tiến). Trong giai đoạn này, mực nước biển dâng lên, nhiều ngọn núi trong Vịnh Bắc bộ bị bao vây bởi nước dâng cao thành các hòn đảo như rải rác trong vịnh Hạ Long ngày naỵ Biển lấn vào giữa đảo Hải nam và Bắc bộ tạo ra vịnh Bắc Bộ còn ở phía nam thì lấn vào đến tận Biển Hồ ở Campuchia và tạo ra vịnh Nam bộ có bờ biển chạy dài từ Battambang đến miền Đông Nam phần như Hố Nai, Trảng Bom hiện nay. Đồng bằng hoá thành vùng biển và đầm lầy, nên có nhiều đất hữu cơ, nhiều than bùn do xác thực vật bị vùi lấp, nén chặt dưới các lớp bồi tích mới (than bùn vùng U Minh); người cổ phải từ từ di chuyển lên các vùng đồi núi như Miền Đông Nam phần hiện naỵ Thực vậy, trong đất đồng bằng, từ 80-150 cm, hiện ra những vết tích của các sinh vật bể xưa còn để lại (vỏ sò, ốc, hàu...).




c/. Sự hình thành châu thổ: rút lui của biển và trầm tích phù sa.

Sau một thời gian tồn tại ở mức cao 4-5 mét như mực nước biển cổ ở vùng đá vôi Hà Tiên cho thấy rõ, biển bắt đầu rút, lúc đầu ở độ cao 3 mét và sau đó dừng lại lâu hơn ở mức cao 2 mét (Fontaine 1972). Người cổ theo nước rút mà xuống đồng bằng, ở các giồng ven biển tức các cồn cát duyên hải hay các giồng ven sông Tiền, sông Hậu. Vịnh Rạch Giá -nguyên là cửa sông Hậu ngày trước-lúc bấy giờ còn ăn xa vào đất liền.

Châu thổ Cửu long trước kia nằm dưới biển chỉ mới dần dần lồi ra khỏi mặt biển chừng 6000 năm nay mà thôi, nghĩa là thời kỳ Holocen muộn ( thời kỳ Holocen khởi đầu 10 000 năm trước công nguyên). Móng đá nguyên thủy trồi trụt là nguyên nhân làm thay đổi mức độ bồi tích của phù sa vốn rất lớn do sông ngòi chở đến. Nơi nào móng đá nâng lên thì lượng trầm tích phù sa ít đi, nhưng lại có diện tích trải rộng như bán đảo Cà Mau; nơi nào móng đá sụt lún thì lượng trầm tích phù sa rất nhiều nhưng bờ biển không tiến ra xa được như những giồng cát tăng trưởng khít nhau dọc miền Bến Tre, Gò Công, Trà Vinh cho thấỵ

Những phù sa cận đại có tuổi rất trẻ (quãng 2000 năm) và nằm giữa và dọc 2 nhánh sông Cửu long là do quá trình bồi phủ của các trầm tích do các trận lũ lụt đưa đến; càng xa sông, lớp phù sa càng mỏng dần. Do đó, ở các vùng xa sông, các trầm tích của các đầm mặn cổ rộng lớn thời kì đầu Holocen sẽ không bị che phủ nữa nên mới có những vùng đất phèn rộng lớn ở tả ngạn và hữu ngạn sông Cửu long.

Các chỗ trũng rộng lớn tức là dấu vết của các vùng biển sau khi biển rút đi như Đồng Tháp Mười, U Minh đều có một lượng lưu huỳnh khá lớn hình thành từ trầm tích hỗn hợp đầm lầy biển hay sông biển là nguồn sản sinh phèn ở ĐBSCL.

Trầm tích phù sa cổ (pleistocène) nằm dưới trầm tích phù sa mới (holocène) và chỉ lộ ra ở những địa hình cao; nói cách khác, trầm tích phù sa mới phủ phần lớn diện tích phù sa cổ và chiếm phần lớn diện tích Đồng tháp Mười.

Thực vậy, trong châu thổ hai sông Vàm cỏ ở Bến Lức, sâu chừng 7-8 mét, ta gặp lớp laterit thuộc phù sa cổ, còn ỏ Tân an, lớp laterit này sâu 15-20 mét.

d/ tóm tắt

Như vậy, theo lịch sử địa chất, ta có:

- móng đá nguyên thủy.

- phù sa cổ sinh được nâng lên, cùng lần với phún xuất bazan.

- một phần phía Tây bị lún xuống, tạo ra một vịnh biển.

- phù sa Cửu long bồi đắp trên vịnh biển, cùng với sự rút lui của mực nước biển để tạo thành châu thổ Cửu long ngay nay.

Lô xô đá dựng giữa dòng Trị An! Lúc này, tôi đang đứng giữa lô xô đá Trị An để cảm kích, suy tư về đá. Hai trăm triệu năm về trước, sóng biển Đông còn vỗ dưới trời Trị An! Một trăm tám mươi triệu năm cách ngày nay, nền móng đầu tiên của mảnh đất dưới chân tôi hình thành-đá phiến Lias thuộc hệ Jura!




Trải qua bao kỳ trồi trụt, thăng trầm của đất và nước, qua bao triều đại đá và núi lửa, đất Trị An nổi lên sông và rừng, nổi lên người và sử, nổi lên đạo lý và văn hiến, nhấn chìm đá. Rồi đá, xương cốt của đất đai, lăn vào da thịt, đùng đùng nổi lên thác sôi réo!

Đá nổi xôn xao Hoài Tố Hạnh

4. Khí hậu

Miền Nam khác với miền Bắc là không có sự phân mùa theo nhiệt độ vì nhiệt độ trung bình vừa khá cao (trên 25 độ), vừa ít biến thiên. ; nhiệt độ luôn luôn thích hợp cho cây trồng. Miền Nam chịu ảnh hưởng gió mùa tây nam: mưa từ tháng 5 đến tháng 11 và nhiệt độ tháng nóng nhất là 29 độ (tháng 4) và mát nhất là 25 độ (tháng 12). Tuy nhiên cũng có hai miền khí hậu chính khác nhau tùy theo MĐNP hay ĐBCL.

41. MĐNP

Khí hậu MĐNP vì tiếp giáp với cao nguyên Nam Trung phần nên mưa nhiều hơn và sương mù gần núi nhiều hơn. Saigon có vũ lượng trung bình cả năm khoảng 1 900 mm.

42. ĐBCL

Tuy mùa mưa xảy ra vào mùa hạ nhưng lượng nước mưa rất thay đổi theo năm ( có năm lũ lụt, có năm không), theo vùng: miệt Rạch giá Cà Mâu thì mùa mưa bắt đầu sớm hơn, vào cuối tháng 4, còn những nơi khác, lần lượt từ đầu đến giữa tháng 5. Thực vậy, miền Cà Mau vì gần xích đạo và chịu ảnh hương gió mậu dịch (trade wind) bắc xích đạo nên khí hậu vừa mưa nhiều hơn (2 250 mm, thay vì 2 000mm ở các nơi khác) với số ngày mưa cũng lớn hơn (160 ngày thay vì 125 ngày).

Miệt Gò Công và lân cận mưa thường bắt đầu cuối tháng 5, đầu tháng 6. Ngay trong mùa mưa cũng có số ngày không mưa (7-8 ngày) gọi là tiểu hạn. Khác với miền Trung, lũ lụt ở đây không phải do mưa tại chỗ mà là do mưa thượng nguồn từ trên Lào hay Kampuchea đổ xuống; do đó có khi ĐBCL dang bị hạn, ít mưa mà lại bị lũ!

Nhái theo truyện Kiều, lũ kia ‘cũng có ba bảy đường, có khi biến, có khi thường’: có khi không nhất thiết lũ lớn mà bị thiệt hại nhiều, lũ nhỏ bị thiệt hại ít; mức độ thiệt hại còn phụ thuộc vào thời gian xuất hiện lũ và thời gian kéo dài của mực nước đỉnh lũ. Lũ xuất hiện sớm hơn bình thường sẽ gây thiệt hại cho lúa hè thu. Lũ có thể lớn (mực nước đỉnh tại Tân châu, điểm đầu nguồn trên sông Tiền trên 4. 5 mét), nhưng lũ xảy ra đúng lúc thì không gây nhiều thiệt hại.

Thời kỳ hạn mặn và nước kiệt: hạn mặn từ tháng 12 đến nửa đầu tháng 3, tiếp theo hạn lớn đến trung tuần tháng 4 và trong mùa mưa cũng có hạn đầu tháng 8. Lũ lụt thường xẩy ra tháng 9-10.

5. Đất đai

5. 1 Đất đai MĐNP

MĐNP nhìn chung khá bằng phẳng, có 3 dạng địa hình: địa hình núi thấp (Núi Bà Đen, núi Chứa Chan), địa hình đồi lượn sóng, có cao độ từ 20-150 mét và địa hình đồng bằng. Các loại đất MĐNP có thể liệt kê như sau:




5. 1. 1 đất xám trên phù sa cổ sinh

Đất xám ở MĐNP chiếm 1 156 000 ha, phân bố ở các tỉnh Tây Ninh, Bình Dương, Đồng Nai. Đây là những loại đất nghèo chất hữu cơ, mức thủy cấp thường sâu, khả năng giữ nước kém, nghèo dinh dưỡng. Ngoài hoa màu phụ như đậu phụng, lúa rẩy, còn gặp các cây ăn trái như mảng cầu, mít, cây kỹ nghệ như điều... Các loại đất này được phân loại trong nhóm đất Acrisols (FAO).

5. 1. 2 đất đỏ

Đất nâu đỏ trên đá bazan thường gặp ở tỉnh Đồng Nai (Xuân lộc, Gia kiệm), Bình Long, Phước Long (Lộc ninh, Phú Riềng). Diện tích đất đỏ quảng 547 000 ha. Đất đỏ phì nhiêu hơn đất xám, sức giữ nước tốt hơn. Trên đất đỏ, ta thường gặp cây cao su, cây cafe, cây điều và cây tiêu. Phân loại trong nhóm Ferralsols.

5. 1. 3 đất đen trên đá bazan

Loại đất này rất phì nhiêu vì có khả năng trao đổi cation và độ no bazơ rất cao (nhóm Luvisols). Đặc biệt có nơi trên miệng núi lửa còn có đất đá bọt (Andosols).

5. 1. 4 đất phù sa

Đất phù sa gặp ven các dòng sông như sông La Ngà, sông Đồng Nai, sông Saigon, sông Bé (Fluvisols).

5. 1. 5 đất gley

Đây là các đất nằm trong các thung lũng rộng, dùng trồng thuốc lá, trồng rau cải, có thủy cấp cạn, không xa lớp đất mặt (Gleysols).

5. 2 Đất đai ĐBCL

Với diện tích tự nhiên của miền đồng bằng sông Cửu Long là gần 4 triệu ha, các nhóm đất chính được phân phối như sau:

Bảng 1. Phân phối diện tích các loại đất miền CTCL
đất cát 43 318 ha 1.10%
đất mặn 744 547 ha 19.10%
đất phèn 1 600 263 ha 41.10%
đất phèn tiềm tàng 421 867 ha -10.70%
đất phèn hoạt động 1 178 396 ha (25.1%)
đất phù sa 1 184 857 ha 25.25%
đất lầy và than bùn 24 027 ha 0.60%
đất xám 134 656 ha 3.50%
đất đỏ vàng 2 420 ha 0.06%
đất xói mòn 8 787 ha 0.20%

Xem vậy, có nhóm đất phù sa, đất phèn và đất mặn đã chiếm hơn 90% diện tích đất ĐBSCL; các nhóm đất khác chỉ chiếm một diện tích rất nhỏ.

5. 2. 1 đất cát giồng

Các loại đất cát giồng được thành lập do sóng biển và gió dồn cát lại mà thành. Giồng có địa hình cao hơn các đơn vị trầm tích khác kế cận. Những giải đất giồng chứng tỏ đó là những bờ biển ngày xưa, nay ở trong sâu vì châu thổ tiến dần ra biển. Có thể gặp nhiều giồng dưới dạng những hình vòng cung song song với bờ biển, rải rác ở các tỉnh Bến Tre, Trà Vinh (huyện Cầu Ngang, Trà Cú...). Càng gần biển thì tuổi các giồng cát càng trẻ hơn. Đất giồng thường cao ráo nên là nơi có tập trung nhiều làng mạc.

Đặc điểm của đất cát giồng là có tầng cát vàng; tuổi tuyệt đối của các giồng này dưới 6 000 năm.




5. 2. 2 đất mặn

Nhóm đất mặn có diện tích 744 547 ha, đứng thứ ba sau đất phèn và đất phù sa. Những đất mặn ở dưới rừng ngập mặn, bị ngập nước triều quanh năm; ngoài ra cũng có những đất mặn không bị ngập triều mà chỉ bị mặn trong mùa khô, thường có cao độ 0. 5-0. 8 mét. Đất mặn gặp các vùng duyên hải như ở huyện Bình Đại, Thạnh Phú, Ba Tri tỉnh Bến Tre, ở huyện Cầu Ngang, Trà Cú tỉnh Trà Vinh và dĩ nhiên các huyện tỉnh Cà Mau.

5. 2. 3 đất phèn

Nhóm đất phèn chiếm nhiều diện tích nhất và có thể gặp:

- vùng Đồng Tháp Mười

- vùng Tứ giác Long Xuyên; đất phèn được hình thành trên các trầm tích ở các cửa sông, vào giai đoạn biển lùi thời kỳ Holocene muộn, với các sản phẩm trầm tích đầm lầy nước lợ, giàu hữu cơ và có chứa một lượng lưu huỳnh khá lớn: đó là các điều kiện để thành hình đất phèn. Căn cứ vào tầng sinh phèn, tầng phèn và độ sâu xuất hiện của những tầng này trong phẫu diện đất, người ta phân biệt:

a/ đất phèn tiềm tàng là những đất chỉ có tầng sinh phèn trong phẫu diện đất, có vật liệu chứa phèn giàu sulfit, nguồn gốc phát sinh ra chất phèn trong đất và ở những vùng ngập nước sâu nhất và lâu nhất. Trong suốt quá trình trầm tích, các điều kiện yếm khí, sự hiện diện của thực vật ngập mặn đã tạo ra phèn ở dạng tiềm tàng. Phân loại đất đai gọi là Sulfaquents (Proto Thionic Fluvisols)

b / đất phèn hoạt động: một khi quá trình thoát thủy xảy ra, đất bị oxyhoá nên tầng pyrit chuyển dần thành tầng jarosite màu vàng rơm (sét cứt chuột), có pH dưới 3. 5. Phân loại đất đai gọi là Sulfaquepts (Orthi Thionic Fluvisols) Khi phèn bốc lên đất mặt mà màu trắng, nông dân gọi là phèn lạnh; khi nổi váng đỏ vì có chất sắt nhiều thì họ gọi là phèn nóng. Đất phèn hoạt động:

- ở trên địa hình cao hơn đất phèn tiềm tàng.

- thoát thủy nhiều hơn.

- đất chua hơn (pH thấp hơn).

Hàm lượng phèn biến đổi theo thời gian và không gian; thực vậy, nước phèn di chuyển từ vùng cao đến vùng thấp trũng, kéo phèn xuống tích tụ ở các rốn phèn tức những lòng chảo, hứng phèn của các vùng cao xung quanh. Trong mùa mưa, nước lôi phèn xuống các rốn phèn, liên tiếp dồn phèn xuống làm cho dung dịch phèn ngày càng đậm đặc nên các vùng này phải bỏ hoang. Hướng sử dụng các rốn phèn là kinh doanh lâm nghiệp (tràm) vừa cung cấp than củi, ong mật và nên tránh trồng các loại hoa màu trên các vùng rốn phèn.




5. 2. 4 đất phù sa được hình thành dọc theo các dòng sông lớn như sông Tiền, sông Hậu. Phù sa ven sông thường ở địa hình cao hơn là các phù sa ở xa sông; độ cao của các bờ sông phụ thuộc vào lượng phù sa và chế độ thủy văn của sông. Ta có thể phân biệt:

đất phù sa địa hình cao có thể trồng lúa 2-3 vụ hoặc lúa+màu.

đất phù sa địa hình thấp thường ngập nước và chua.

Các loại đất phù sa mới được hình thành cách đây chỉ khoảng 6 000 năm nay và không có lớp laterit hoặc sạn sỏi. Có giá trị lớn về mặt nông nghiệp: cây ăn trái, rau cải, hoa màu.

5. 2. 5 đất than bùn

Nhiều ở rừng U Minh, giàu lớp hữu cơ. Hiện nay, nhiều rừng tràm bị đốt cháy nên lớp hữu cơ cũng bị mất đi và do đó diện tích đất hữu cơ càng hẹp dần.

5. 2. 6 đất xám

Đất xám trên phù sa cổ (địa hình cao) thường gặp tại các vùng ranh với biên giới Campuchia như Mộc Hoá, Hồng Ngự, Đức Huệ... Trong đất loại này, có lớp laterit dưới sâu. Tuổi tuyệt đối dùng phương pháp C14 quãng 25 000 năm.

6. Thủy lợi

6. 1. MĐNP

MĐNP có các dòng sông sau đây chảy qua: sông Đồng Nai, sông Bé, sông Saigon. Sông Đồng Nai là con sông phần lớn trong lãnh thổ Vietnam, chỉ dài 480 km, phát nguyên từ cao nguyên Lâm viên Dalat và sau khi chảy qua cao nguyên Lâm Đồng, thì chảy vào MĐNP. Sông Đồng Nai, với lưu lượng 485m3 /giây (Trị An) có nhiều phụ lưu như sông La Ngà, sông Bé, sông Saigon. Sông Đồng Nai, chảy qua thành phố Biên Hoà, gặp sông Saigon tại Nhà Bè nên có câu ca dao:

Nhà Bè nước chảy chia hai
Ai về Gia Định Đồng Nai thì về


Sông Bé, phát nguyên từ cao nguyên M’nong, chảy qua tỉnh Bình Phước (Bình Long, Phước Long) và đổ vào sông Đồng Nai, có lưu lượng trung bình 264 m3 /giây (Phước Hoà).

Trên thượng lưu sông Saigon ở Tây Ninh có hồ nước thủy lợi Dầu Tiếng, rộng 27 000ha, có sức chứa 1. 5 tỷ m3 có khả năng tưới cho cây trồng, cho nước sinh hoạt, nước công nghiệp. Sông Saigon, lưu lượng nhỏ hơn 2 sông kia, với 85m3 /giây (Thủ Dầu một), chảy qua Bình Dương và đổ vào sông Đồng Nai ở gần Nhà Bè. Cửa sông chính của sông Đồng Nai là cửa Cần Giờ và Vàm Láng.

Về nước ngầm, vùng đất xám (Tân Uyên, Bến Cát) có nguồn nước dồi dào, độ sâu khai thác 25-70 mét, lưu lượng 15-20 lít/giây, chất lượng nước tốt. Các nơi có địa hình thấp trũng có nước cao áp. Vùng đất đỏ nguồn nước ngầm trữ lượng không lớn, độ sâu khai thác 50-100 m, lưu lượng 3-5 lít /giây, chỉ sử dụng phục vụ sinh hoạt và tưới diện tích nhỏ.

6. 2. ĐBCL

6. 2. 1. Nhận xét tổng quát

Đồng bằng này bằng phẳng với mạng lưới sông ngòi, kinh rạch ngổn ngang làm cho toàn vùng đều chịu ảnh hưởng của thủy triều hình thành những loại hình nơi mặn, nơi chua, nơi cả mặn lẫn chua, nơi bị ngập lụt và phèn nặng.

Nông dân có vô số từ ngữ để gọi kinh rạch: ngoài các chữ thông dụng như sông, ngòi, mương, lạch, kênh, bàu, ao, hồ, v. v còn có thêm rạch, xẻo, ngọn, rọc, lung, láng, bưng, biền, đầm, đìa, trấp, vũng, trũng, gành, xáng.

Môi trường sông nước với thủy triều lên xuống cũng có nhiều từ ngữ: ngoài chữ nước lớn (thủy triều dâng) và nước ròng (thủy triều hạ), còn có nước giựt, nước bò, nước nhảy, nước đứng, nước nằm.

6. 2. 2. Các sông chính

6. 2. 2. 1 Sông Vàm Cỏ.

Sông Vàm Cỏ có 2 nhánh:

- Vàm Cỏ Đông, còn gọi là sông Bến Lức, dài 250 km, phát nguyên từ bên Campuchia, chảy xuống Trảng bàng, Gò Dầu đến khu vực nhà máy đường Hiệp hoà, qua kinh Cầu An Hạ rồi chảy ngang qua cầu Bến Lức.

- Vàm Cỏ Tây

cũng phát nguyên từ bên Campuchia chảy qua Mộc Hoá đến Thủ Thừa rồi chảy qua cầu Tân An, gần châu thành Tân An. Cả 2 sông này gặp nhau ở phía đông quận Tân Trụ rồi dòng sông mở rộng để nhập vào sông Nhà Bè, đổ ra cửa Soài Rạp (cửa Vàm láng).

6. 2. 2. 2 Sông Cửu long và các kinh rạch

Sông Cửu Long rất dài, -4200km- và đã chảy qua nhiều xứ duyên hà như Nam Trung Hoa, Miến Điện, Ai Lao, Cao Miên trước khi vào lãnh thổ miền Nam Việt nam; khi chảy đến tỉnh Kompong Cham của Cao Miên thì dòng sông không đủ chuyển tải lưu lượng mùa lũ nên nhiều vùng của hai nước Miên-Việt bị ngập lụt, kéo dài 2-4 tháng. Đến Nam Vang, dòng chảy ấy hoà nhập với một nhánh lớn là sông Tonlesap nối với Biển Hồ. Hồ này có sức chứa trong mùa lũ đến 80 tỷ m3 nước. Lưu lượng trung bình của sông Cửu long là 10 700 m3/giây; vào mùa lụt cao, có khi lên đến 53 000m3/giây. Vào mùa kiệt, vào tháng 3-4, lưu lượng chỉ còn 2000 m3/giây.

Ngay điểm hợp lưu với sông Tonlesap trên đất Cao miên, sông Mekong chia làm 2 nhánh: nhánh chính ở phía đông đi về Neak Luang chảy vào địa phận Viet Nam ở Tân Châu, được gọi là sông Tiền và nhánh phụ phía Tây là sông Bassac đổ về Châu Đốc, được gọi là sông Hậu. Cả 2 dòng sông chảy ra biển bằng 9 cửa sông, dân gian ví như 9 con rồng nên mới có tên là Cửu long.
- Sông Tiền, chảy qua các thị trấn như Sadec, Vĩnh Long và đổ ra biển bằng 4 sông và 6 cửa là:

* sông Mỹ Tho, chảy ngang qua Mỹ tho và ra biển bởi Cửa Tiểu và Cửa Đại.

* sông Ba lai, chảy qua tỉnh Bến Tre, ra biển bởi cửa Ba lai.

* sông Hàm luông, chảy qua tỉnh Bến Tre và ra biển bởi cửa Hàm luông.

Cửa Hàm luông sông sâu sóng cả
Em thương anh nhiều mà chả dám theo
Thương anh đâu quản hiểm nghèo
Ngặt vì một nỗi, anh có con mèo theo sau.


* sông Cổ chiên chảy giữa 2 tỉnh Bến Tre và Trà Vinh ra biển bởi 2 cửa là Cổ chiên và Cung hầu.

- Sông Hậu, chảy qua các thị trấn như Châu Đốc, Long Xuyên và Cần Thơ và đổ ra biển qua 3 cửa sông là cửa Định An (về phía tỉnh Trà Vinh), Bassac (Ba thắc) và cửa Trần Đề (phía tỉnh Soc Trăng).

Nối liền giữa 2 sông Tiền và sông Hậu có nhiều kênh đào như kinh Vĩnh an (ở Châu Đốc), sông Vàm Nao (ở An Giang), kênh Lấp Vò (Vĩnh Long), sông Măng thít (Trà Vinh).
Còn riêng trong đồng bằng cũng còn có nhiều kênh đào khác quan trọng đóng góp vào sự lưu thông hàng hoá cũng như trị thủy. Đó là:

* kinh Vĩnh Tế (nối Hà tiên với Châu đốc).

* kinh Rạch giá-Long xuyên.

* kinh Phụng hiệp (Cà mâu-Cần thơ).

* kinh Cà mâu-Bạc liêu.

* kênh Xà no (Vị thanh-Cần thơ).

Ngoài sông Cửu long, trong đồng bằng còn có vài dòng sông khác như:

* sông Gành hào, Đầm dơi, Bồ đề (thuộc Cà Mau) và sông Mỹ thanh chảy ra biển Đông.

* sông Cái bé và Cái lớn chảy ra vịnh Rạch Giá.

* sông Trèm trèm, sông Ông Đốc chảy ra vịnh Thái lan.

Chế độ thủy văn của sông Cửu long khác nhau tùy mùa mưa hoặc mùa nắng:

- vào mùa mưa, nhờ có Biển Hồ nên nước dòng sông chỉ dâng lên từ từ và nhờ vậy, đồng bằng ít bị lụt; giống lúa nổi trồng các vùng An Giang, Kiên Giang có thể thích nghi với mực nước dâng chậm; tuy nhiên những năm mưa trên thượng lưu lớn, lưu lượng sông Cửu Long 25 ngàn m3/ giây, thì châu thổ bị ngập nước. Thời gian ngập lụt thường kéo dài từ tháng 7-8 đến tháng 11-12. Những vùng trũng như Đồng Tháp Mười thì lụt lâu hơn và bắt đầu sớm hơn. Trong vòng 25 năm qua, đồng bằng này bị nhiều lũ lụt lớn (1961, 1966, 1984, 1991, 1994). Với người nông dân, lũ lụt là tai hoạ nhưng cũng là tài nguyên. Nhờ lũ lụt, sông Cửu long kéo dài tuổi trẻ, ruộng đồng rửa sạch phèn, được thêm lượng phù sa màu mỡ và được mùa cá tôm quanh năm.

- vào mùa khô thì nước trong Biển Hồ lại đổ từ từ ra dòng chính cho đến hết tháng 12, đem theo muôn vàn cá con về miệt Cao Lãnh, Sadec, Long Xuyên, Châu Đốc làm giàu thủy sản nước ngọt ở đây; tuy nhiên khi lưu lượng sông nhỏ hơn 2000m3/ giây, - trong khi nhu cầu nước cho sinh hoạt châu thổ trong khoảng thời gian này là 4 tới 5 ngàn m3 /giây và nhu cầu ấy dự trù tăng gấp đôi vào giữa thế kỷ 21, - thì nước ngọt bắt đầu khan hiếm và khi dòng chảy sông đã yếu, nước biển theo thủy triều lấn sâu vào phía nội địa, các vùng ven biển bị nhiễm mặn không thể lấy nước cho trồng trọt được. Hiện nay nước mặn đã xâm nhập khá sâu vào nội địa rồi: đó là trường hợp nhiều vùng ở Sóc Trăng, Bến Tre, Gò Công vào mùa nắng, lưu lượng nước sông ít, nước triều biển Đông xâm nhập sâu vào nên các vùng này bị nhiễm mặn, không sản xuất lúa được.

Chất lượng của nước

Trong ĐBCL, có 4 loại nước khác nhau:

- Nưóc ngọt, nước phèn, nước lợ, nước mặn.

- Nước phèn là nước chứa nhiều sắt và nhôm, có nồng độ acid lớn nên không uống được.

- Nước lợ (nước chẻ hai) là nước pha giữa nước ngọt và nước mặn.

- Nước mặn là nước gần vùng cửa biển chứa nhiều clorua natri (ClNa).

Vào mùa nắng, lưu lượng dòng sông thấp nên nước mặn từ các cửa biển vào sâu trong nội địa hơn mùa mưa.

Thủy triều

Củng như nhiều nơi trên thế giới, miền biển châu thổ Cửu long có 2 thủy triều lên và 2 thủy triều xuống trong 24 giờ ( chế độ bán nhật triều), còn miền biển Bắc bộ chỉ có một lần thủy triều lên và một lần thủy triều xuống (chế độ nhật triều). Đó là vì có nhiều yếu tố khác như dạng bờ biển, chiều sâu đại dương.

Nước lên-nước xuống chi phối đời sống dân ven biển. Một chu kỳ biến động của mực nước-từ lúc nước biển rút xuống đến mức tối đa đến lúc nước biển lên cao đến mức tối đa kéo dài 15 ngày và được gọi là một con nước. Như vậy, mỗi tháng có 2 con nước.

Tuy miền châu thổ Cửu long có chế độ bán nhật triều (biển Đông) nhưng biên độ triều của hai lần không đều nhau: ta có nước lớn cao, nước lớn thấp, nước ròng cao, nước ròng thấp; như vậy, ở đây mỗi ngày 24 giờ có 1 lần nước lớn cao, một lần nước lớn thấp, một lần nước ròng cao, một lần nước ròng thấp. Nhìn nước lớn, nước ròng, nhìn cuộc đời sớm còn, tối mất, người ta ca rằng:


Bìm bịp kêu nước lớn anh ơi
Buôn bán không lời, chèo chống mỏi mê.


Trước khi đổi con nước, dòng sông ngưng hẳn, gọi là nước đứng:

Nước không chưn sao kêu bằng nước đứng
Cá không giò sao gọi con cá leo?

Mực nước thủy triều có ảnh hưởng lớn đến đồng bằng, từ chuyên chở trên sông rạch đến nông nghiệp. Nước triều cao sẽ dễ dàng lấn sâu vào nội địa và làm nhiễm mặn nước sông và đất đai. Tại vùng châu thổ Cửu Long, ảnh hưởng của thủy triều có thể lên đến Nam Vang, còn nước mặn ảnh hưởng nhiều vùng duyên hải như Bến Tre, Long An, Trà Vinh, Soc Trăng, Cà Mau…

7. Thảo mộc thiên nhiên

7. 1 MĐNP

MĐNP trước kia có nhiều loại rừng như cây dầu, cây bằng lăng, cây sao, gỏ nhưng nay bị đốn phá nhiều để trồng hoa màu, do sức ép dân số

7. 2 ĐBCL

Phải kể cây tràm (Melaleuca) vùng U Minh. Vào mùa khô, trái tràm rụng xuống đất và đến mùa mưa, cây tràm con đã lên xanh tốt. Cây tràm nhỏ và thấp hơn cây đước và thân cây thường vặn vẹo không thẳng đứng như cây đước. Những cây thân tương đối thẳng thì dùng làm cột nhà, cây tràm dùng làm cọc chống lún rất bền chắc. Gỗ tràm dùng làm cột nhà mà không bị mọt mối phá hư. Hoa tràm có vị thơm và nhụy hoa ngọt nên loài ong thường đến hút nhụy làm mật. Rừng tràm là nơi ẩn náu nhiều loài chim, cá đồng, chưa kể các động vật như trăn, rùa, khỉ, heo rừng. Rừng ngập mặn ven biển thì có cây đước (Rhizophora) phát triển rất nhanh tại các bãi bồi còn sình lầỵ Cây đước làm cột nhà, cắm trụ đáy trên các sông và ngoài biển khơi. Gỗ đước còn dùng làm mái chèo. Ngọn, nhánh đước dùng làm củi và thân cây đước dùng để hầm than: có hàng trăm lò than đước ở huyện Năm Căn ( Cà Mau). Vỏ đước dùng để nhuộm chài lưới và là nguyên liệu chế tanin phục vụ cho ngành thuộc da. Cây bần (Sonneratia acida), cây dừa nước (Nipa fruticans) mọc theo bờ kinh rạch. Cỏ bàng (Leipironia) dùng làm đệm. Những vùng đất bồi ngập mặn có lác dùng để dệt chiếu.

Đồng Bến Tre nhiều bưng nhiều lác
Đường về Ba Vát, nặng chĩu sầu riêng
Anh ra đi ba bốn năm liền
Sao không ở lại kết bạn hiền với em.


8. Sử dụng đất đai tại MĐNP và ĐBCL

8. 1 Sử dụng đất dai MĐNP

Trong các cây kỷ nghệ, có thể gặp cây cà phê, cây điều, cây caosu. Cây cà phê, thường trồng trên đất đỏ có giá trị xuất cảng rất lớn vì giá trị 1 tấn hạt cà phê tương đương với 10-12 tấn gạo. Cà phê chủ yếu trồng là cà phê vối (robusta) trồng ở Xuân Lộc, Bình Long, Phước Long trên đất đỏ.

Cây điều, còn gọi là điều lộn hột (Anacardium occidentale), được trồng để lấy hạt vì nhân hạt là 1 thực phẩm thơm ngon có giá trị xuất cảng cao: giá hạt điều thô hiện nay quảng 1 000 USD /tấn và giá nhân hạt điều ăn liền 6 000USD/ tấn. Trung bình 5 tấn hạt điều thô chế biến được 1 tấn hạt điều ăn liền. Tuy nhiên hiệu qủa kinh tế của cây điều không cao nếu so sánh với các loại cây ăn trái hay cà phê nên xu thế trồng điều bị giảm mạnh. Caosu có nhiều MĐNP vì trước đây, nhiều công ty cao su đã thiết lập các đồn điền. Tại MĐNP, có nhiều loại cây ăn trái như: chôm chôm (rambuttan), măng cụt (mangoustan), bưởi (bưởi Biên Hoà), mảng cầu dai (Vủng Tàu), sầu riêng (durian).

8. 2 sử dụng đất đai ĐBCL

Khi nói đến nông nghiệp miền châu thổ sông Cửu long, là ta nghĩ ngay đến lúa, vì lúa là nông sản chính trên các chân ruộng ở đây: lúa mùa, lúa nổi, lúa trồng mùa khô v. v. Cũng có những tiểu vùng nhiều vườn cây ăn trái, làm nên cái ta thường gọi là ‘văn minh miệt vườn’.

8. 2. 1 Lúa

Miền ĐBCL là vựa lúa của Viet Nam và cũng có thể nói vựa lúa của thế giới vì chính từ ĐBCL mà gạo được sản xuất nhiều nhất ở Viet Nam để tiếp tế cho miền Trung, miền Bắc và Saigon và cũng để xuất cảng sang các xứ Á châu (Phi luật Tân, Indonesia), Phi châu…

Lúa được bố trí tùy theo điều kiện đất đai, thủy lợi nên có thể có nhiều thời vụ như lúa mùa, lúa Đông Xuân, lúa Hè-Thu. Biện pháp canh tác lúa chủ yếu là sạ (gieo vãi), chứ không cấy như xưa, trong đó biện pháp sạ ướt (hạt giống được ngâm ủ cho nảy mầm, sau đó gieo trên đất dã được dánh bùn kỹ) chiếm ưu thế.

a/ Lúa mùa

Đây là lúa mùa mưa ; vụ lúa này thường bắt đầu từ tháng 5 và thu hoạch tháng 10-11 cho đến tháng 1-2 năm sau. Tùy điều kiện thủy lợi, nông dân dùng giống lúa mùa sớm (thời gian sinh trưởng 125-150 ngày), lúa mùa chính vụ (180-200 ngày) và giống muộn (225-250 ngày). Những chổ ngập sâu thì cấy lúa muộn, chỗ ruộng ngập cạn, dưới 0. 5 mét thì làm lúa mùa sớm.

Hiện nay, nhờ kỷ thuật sạ khô và việc du nhập các giống mới có năng xuất cao, chịu phèn mạnh, tương đối cao cây và nổ lực làm thủy lợi nên nông dân trồng lúa hè-thu bằng sạ khô rồi cấy vụ mùa địa phương (thu-đông) bằng giống lúa mùa sớm, năng xuất cao.

b/ Lúa nổi

Lúa nổi cũng là lúa mùa, nhưng đặc trưng là nó chịu ngập nước rất sâu: lúa nổi được sạ vào tháng 5 và cũng tùy mực nước rút sớm hay muộn mà nông dân gieo những giống lúa nổi thân cao ít hay thân cao nhiều. Sau vụ lúa nổi gặt vào tháng 12, nông dân tận dụng nước ẩm còn trong ruộng lúa để làm thêm hoa màu phụ. Có nơi khắc phục được sự ngập sâu của nước như Hồng Ngự thì nông dân còn trồng được 2 vụ lúa: lúa Hè-Thu (tháng 4 đến tháng 8) và lúa Đông-Xuân (tháng 12 đến tháng 3 năm sau).

c/ Lúa Hè-Thu

Đây là lúa làm ngay đầu mùa mưa nhưng do sử dụng giống mới, thấp cây, ngắn ngày để có thể thu hoạch được trước khi lũ sông Cửu long đến; ở vùng đất mặn, phải sạ lúa hè-thu trễ hơn vì phải chờ mưa xuống rữa chất mặn. Nói khác đi, lúa hè-thu là loại lúa mùa sớm địa phương.

d/ Lúa Đông Xuân

Đây chỉ là vụ lúa trái mùa vì làm trong mùa khô nên chỉ phát triển những nơi không bị mặn. Các vùng nước ngọt có thể dùng máy bơm lên ruộng để làm vụ này. Người ta sạ tháng 11-12 và thu hoạch tháng 2-3. Tại các vùng phèn, nông dân chờ khi nước rút còn bùn thì họ sạ hạt lúa đã ngâm ủ nẩy mầm (‘sạ ngầm ‘) để bùn phủ kín hạt, đồng thời đắp bờ để khống chế mực nước rút, như vậy một mặt là vừa nhanh, vừa tránh đất khô, phèn bốc lên.

8. 2. 2 Hoa màu (bắp, đậu, khoai lang...) Bắp trồng trên phù sa ven sông Tiền, sông Hậu và bắp là màu nhiều tiềm năng phát triển nếu muốn đẩy mạnh chăn nuôi theo lối kỷ nghệ. Càng ngày, nông dân càng sử dụng các giống bắp lai có năng suất cao hơn giống địa phương.

8. 2. 3 Rau cải: đây là rau cải hàng hoá trồng nhiều trên đất giồng hoặc đất phù sa đã thoát bớt nước nhờ trồng trên liếp. Phải kể các loại rau tươi như xà lách, rau diếp, xà lách son tức cresson, các loài cà chua, cà pháo, khổ qua tức mướp đắng, các gia vị như ớt, tỏi, hành, hẹ…

8. 2. 4 Cây ăn trái

Các loại cây ăn trái thường tập trung trên các vùng phù sa nước ngọt ít bị lụt, dọc sông Tiền, sông Hậu như Mỹ Tho, Vĩnh Long, Cần Thơ. Cây ăn trái thuộc miệt vườn như trên có dọc theo các sông, các bờ kinh rạch, các cù lao còn gọi là cồn như cồn Phụng, cồn Tân Long. Có thể kể: xoài (ở Vĩnh Long, Mỹ Tho), chuối, thơm (khóm) tại Long An, Kiên Giang, cam quít (tại Sadec, Bến Tre), nhãn (Bạc Liêu), đó là chưa kể vú sữa, xơ ri (Gò Công), bòn bon (Bến Tre).

Hai ta như sen mùa Hạ, cúc mùa thu
Như tháng mười hồng, tháng năm nhãn
Em theo chim, em đi về tháng tám
Anh theo chim cùng với tháng ba qua.

8. 2. 5 Cây kỷ nghệ

Cây kỷ nghệ được phân loại thành cây kỷ nghệ ngắn ngày (như thuốc lá) và cây dài ngày như cây mía trồng trên các liếp tại các vùng đất phèn (Long An), thơm, dừa…

Dừa nhiều ở Bến Tre và cho cơm dừa, cũng như các phụ phẩm khác như xơ dừa, gáo dừa, thảm nệm xơ dừa, than gáo dừa.

9. Triển vọng khai thác trên các loại đất có vấn đề

Tại ĐBCL, có nhiều loại đất có vấn đề: thực vậy, đất phèn thì nhiều độc tố như nhiều sắt, nhiều nhôm; đất mặn thì nhiều chất mặn; cả 2 loại đất này cần hệ thống đê chống lũ, rửa phèn, rửa mặn.

9. 1. Triễn vọng khai thác trên đất phèn

a. lịch thời vụ

Nguyên tắc là phải canh tác trong các giai đoạn thích hợp để tránh đỉnh cao của sự hoá chua trong đất và của sự thiếu hụt nước ngọt, đồng thời tránh thời gian lũ lụt. Thực vậy vào đầu mùa mưa, hàm lượng phèn ở tầng đất mặt tăng lên đột ngột nên cây cối lụi tàn, tôm cá chết.

Trên các vùng đất phèn, vào dầu vụ (cuối tháng 4), nông dân sau khi đốt đồng cho sạch cỏ dại, thì đất được cày bừa rồi họ ‘sạ khô’ với giống lúa sớm và bừa lấp. Với các cơn mưa đầu mùa, cây lúa nẩy mầm và khi phèn tăng lên đột ngột do mưa xuống nhiều thì cây lúa đã mạnh nên có thể kháng cự được các độc tố phèn. Có 2 giai đoạn rõ rệt trong kỷ thuật này:

1 lúc đầu sạ khô và tiêu nước mặt triệt để bằng mọi rãnh tiêu lớn nhỏ, chỉ giữ đất vừa ẩm nhờ mưa cho lúa sinh trưởng.

2 khi mưa đủ lớn thì đắp bờ đóng cống giữ nước lại trên đồng cho ngập chân lúa, tránh hiện tượng oxy hoá phèn. Còn phải sạ với giống lúa sớm là vì khi gặp lúc phèn nhiều trong đất thì cây lúa cũng đã có 3-4 lá, đủ mạnh để đủ sức vượt lũ cuối tháng 8 và thu hoạch trước khi lũ đến.

b. quản lý đất (soil management) và nước (water management)

b. 1 trên lúa

Ở những vùng có nhiều nưóc ngọt có thủy triều lên xuống (Bình Dương), nông dân chỉ cần đắp đê quanh ruộng, khi nước thủy triều lên, sẽ mở bọng cho nước sông vào và giữ nước này trên ruộng, sau đó sẽ cho chảy từ từ xuống sông khi nước thủy triều rút trong nhiều giờ để nước sông có thời giờ làm tan phèn và tan muối.

Ở những vùng không có nhiều nước ngọt mà chỉ trông cậy vào mưa thì công tác xả mặn, xả phèn đòi công phu hơn vì cần có tuyến đê bao quanh vùng để không cho nước mặn, nước phèn ở các vùng kế cận xâm nhập. Tuyến đê bao này cũng có tác dụng chống luôn lũ và sử dụng như con lộ để di chuyển; trong khu vực được bảo vệ, phải có kênh mương và hệ thống xả nưóc ra vô.

Sau đó làm đất kỷ, cày sâu xới đất lên ở các vùng không có tầng sinh phèn gần mặt đất. Chờ mưa xuống làm tan phèn, tan muối, nông dân mới tháo nước để xả mặn, xả phèn qua các miệng cống hay xuống các mương từ đó nước mặn, nước phèn rút vào ống bọng và theo ống chảy ra sông rạch. Khi có nhiều nước mưa thì ngăn giữ lại để bảo vệ lúa bên trong và sau khi thu hoạch lúa, họ xả cống để cho nước tự nhiên ra vô để lấy phù sa.

Nhà nông còn khắc phục được đất phèn nhờ làm chủ nước trời và lũ: nhà nông tận dụng lớp đất thịt trên mặt, kết hợp với lợi dụng lũ và mưa, thậm chí với nước ngầm, để ếm phèn: Ém phèn là tạo điều kiện để có một lớp nước mặt trên đất phèn, tránh không cho đất tiếp xúc với không khí trong mùa khô, khiến quá trình oxy-hoá không thực hiện được, phèn hoạt động trở thành phèn tiềm tàng.

b. 2. cây trồng cạn

Những nơi cây lúa không thể canh tác được vì gặp đất phèn nặng, nông dân trồng cây rễ cạn. Liếp cao là đòi hỏi đầu tiên của việc canh tác hoa màu trồng cạn như sắn, khoai mở, mía trên đất phèn. Mỗi liếp rộng 3-5 mét, xen kẻ với những mương rộng 2-2. 5 mét, sâu khoảng 1-1m. 2 Các mương liếp thông với nhau và nối với kênh rạch tự nhiên qua cống đóng mở gọi là bọng. Bọng đóng lại để giữ nước vào mùa khô (tháng 2, 3, 4) và mở ra để thay nước củ khi thủy triều lên. Nhờ thủy cấp hạ xuống do lên liếp nên các độc tố của đất như nhôm, sắt được rửa trôi đi và sau đó, mới canh tác được ; trên liếp, trồng sắn, khoai mỡ, mía, khóm (thơm), dưới rãnh nuôi thủy sản. Qua nhiều năm canh tác, đất trên liếp bớt phèn ngày càng thuận lợi cho cây trồng sinh trưởng. Đối với những cây lâu năm như trồng xoài, nông dân còn đắp những ụ đất cao xung quanh gốc. Qua nhiều mùa mưa được rữa phèn liên tiếp, các mô cao ấy dần dần bớt phèn và sự phát triển cây cũng thuận lợi hơn. Có thể sử dụng gốc tháp kháng phèn như dùng cây bình bát để tháp cây mãng cầu xiêm (2 cây này cùng một họ thực vật).

Đến mùa khô ráo, phèn di chuyển từ các tầng sâu lên đất mặt do sự mao dẫn; phèn bốc hơi để lại những váng đất màu vàng rơm làm hại cây trồng; những váng này thường thấy dọc các đáy rãnh giữa các liếp. Nếu mặt đất được xới xáo thì hiện tượng mao dẫn không còn, phèn không bị bốc hơi và không thể lên tới đất mặt

Tóm lại, sự cải thiện việc cung cấp nước ngọt là vấn đề then chốt trong cải tạo đất phèn, nhất là đầu mùa mưa. Cần các kênh đào cung cấp nước ngọt.

9. 2. Triễn vọng khai thác trên đất mặn

Trên các vùng đất mặn duyên hải (Gò Công, Bến Tre, Trà Vinh, Cà Mau, Rạch giá...), phải làm đê ngăn mặn ven biển. Trên đê có thể là đường giao thông, dưới đê sẽ có nhiều cống xả mặn. Các cống phải được thiết kế theo kiểu tự động đóng vào lúc ngăn mặn và mở ra lúc thoát lũ. Nhờ vậy sản xuất nông nghiệp sẽ không lo bị nhiễm mặn nữa.

10. Các thủy sản: sự cọng sinh giừa người và thiên nhiên

10. 1. Cá

Cá phải kể nhiều loài: cá lóc, cá rô, cá trê, cá trạch, cá chài, cá dảnh, cá mè vinh, cá tra, cá vồ, cá chép, cá cốc, cá hu, cá bông lau, cá bạc bụng và cá linh. Loại cá này từ Biển Hồ, cư đầu mùa mưa, theo dòng nước phù sa đỏ nâu, trôi dạt xuống đồng bằng Cửu long, nhỏ li ti và theo lũ lụt tràn vào các ruộng đồng sinh sống. Khi mùa mưa chấm dứt, nước lũ rút dần ra sông, vào tháng 11, tháng 12 âm lịch và loài cá linh cũng dạt theo lội hàng bầy trên mặt nước, khiến ngư dân có một tài nguyên phong phú vào mùa nước xuống nàỵ Cá linh nhiều đến nổi phải làm nước mắm. Ngoài đánh bắt cá, nhiều nhà có nuôi cá vồ, cá tra. Ngoài ra, còn có nghề nuôi cá bè (Long Xuyên, Châu Đốc) vừa chi phí ít, vừa năng suất cao. Ngoài bờ biển có những hải sản như cá bạc má, cá mối…

10. 2 Tôm

Ngoài cá, ĐBCL còn có tôm như câu ca dao sau đây:

Chiều chiều quạ nói với diều
Cù lao ông Chưởng còn nhiều cá tôm


Tôm sứ, tôm hùm, tôm thẻ, tép bạc là các nguyên liệu để chế biến thành nhiều mặt hàng xuất cảng. Nuôi trồng dọc theo bờ biển như tôm-đước, tôm-lúa, tôm-dừa.

Tôm cạnh tranh với thực vật: muốn có năng xuất cao, cần thâm canh mà muốn thâm canh, phải phá hết thảm thực vật mà khi không có thảm thực vật thì vuông tôm bị ô nhiễm mặn và nhiệt vì nóng. Hiện nay có phong trào nuôi tôm với lúa.

Ruốc cũng là một loại hải sản dùng chế biến nước mắm.

10. 3 Ba ba tức là rùa nước ngọt; phổ biến ở Vietnam là Trionyx sinensis. Chuyên ăn động vật (cá, động vật không xương sống...) và đẻ trứng ở mé nước. Ba ba dễ xuất cảng vì chế biến với gia vị là món ăn ngon.

10. 4 Cua và ghẹ, nghêu sò

Cua đồng cũng là nguồn thức ăn giàu đạm ở Vietnam. Trữ lượng nhiều nhưng việc sử dụng thuốc trừ sâu trên diện tích rộng đã làm hư hao tài nguyên cua đồng tại nhiều nơi. Ngoài cua đồng còn có cua biển, nghêu, sò huyết. Ở Bến Tre, nghêu tập trung thành từng bãi rộng ven bờ biển; ruột nghêu dùng làm thực phẩm, vỏ nghêu dùng nung vôi bón ruộng. Rươi cũng là một loại hải sản dùng làm nước mắm, có trong các rừng cây mắm ở Thạnh Phú, Bình Đại.

10. 5 Ếch thì có:

Ếch đồng phổ biến ở đồng ruộng Viet Nam (Rana tigrina) rất có ích vì thịt ăn thơm ngon và đùi ếch đông lạnh dễ xuất cảng; hơn nữa bắt được các côn trùng trong ruộng.

11. Môi trường nhân văn

a/ thành phần cư dân

Thành phần ngưòi Việt di dân vào miền châu thổ Cửu long thì nào là tù bị lưu đày, nào là đào binh hoặc là bần cố nông nghèo khổ miền Trung:

Tới đây xứ sở lạ lùng
Con chim kêu phải sợ, con cá vùng phải kinh


Những cánh đồng cỏ lát mênh mông ‘muỗi kêu như sáo thổi, điả lội tựa bánh canh’ hoặc ‘khỉ khọt trên cây, sấu lội dưới nước’ là những vấn đề thực tế của người dân mới khai hoang. Ngoài người Việt di dân đến khai hoang, phải kể thêm người Hoa chống nhà Thanh ở Trung quốc (phong trào phản Thanh, phục Minh) đến Việt Nam và do chúa Nguyễn cho vào Nam khai khẩn đất hoang vào năm 1658 ở miệt Biên hoà (Cù lao Phố), ở miệt Mỹ Tho với Dương ngạn Địch, ở miệt Hà Tiên với Mặc Cửu sau này có con là Mạc Thiên Tứ tiếp tục thần phục triều đình nhà Nguyễn, ở miệt Bạc Liêu như câu ca dao sau đây:

Bạc Liêu nước chảy lờ đờ
Dưới sông cá chốt, trên bờ Triều Châu


rồi có người bản địa như người Chăm theo Hồi Giáo ở Châu Đốc đến dân Khmer ở Trà Vinh, Sóc Trăng... theo Phật giáo Tiểu thừa với các sóc, các phum, các chùa chiền Khmer.

b/ ảnh hưởng môi trường thủy lợi đến lối gia cư

Cũng là người Việt di dân, cũng là văn hoá nông nghiệp, nhưng khi người Việt vào vùng đất mới sình lầy vùng đồng bằng sông Cửu long, phải trải qua một quá trình thích ứng nên văn hoá cũng hơi biến đổi:

Người đi dao rựa dắt lưng
Ngó sông sông rộng, ngó rừng, rừng cao


Châu thổ Cửu long vì úng trủng nên các bậc tiền bối đã phải dày công khai phá và nhất là đào kinh để thoát bớt nước. Đào kinh có nhiều mục đích:

- hạ thủy cấp xuống để có thể trồng trọt.
- làm chất phèn độc (Alumin, sắt) có thể trôi đi.
- làm phương tiện giao thông: vừa là đường sá, vừa là kinh rạch.

Công việc đào kinh kéo dài từ lúc mới khai hoang như trào vua Minh Mệnh có kinh Vĩnh Tế nối liền Châu Đốc với Hà Tiên, trào Pháp thì có nhiều kinh mang tên người khởi xướng (kinh Tổng Đốc Lộc, kinh Lagrange...) hay mang địa danh vùng kinh đào chảy qua (kinh Thủ Thừa ở Long An, kinh Chợ Gạo ở Định Tường), thời Việt Nam Cọng Hoà có kinh Đồng Tiến, chưa kể vô số kinh ở địa điểm dinh điền Cái sắn ở Long Xuyên.

Môi sinh ngoại cảnh như vậy đã ảnh hưởng dến lối cư trú.

Ở miền Nam, nông dân sống theo kinh rạch, trải dài dọc bờ sông để tiện canh tác; các nhà sàn dựng lên ở những nơi bị úng trủng, ngập lụt hay gần các vùng có rừng ngập mặn, làng mạc không có cây đa cao ngất từng xanh, không có cổng làng, không gian xã hội rộng mở khác với các làng xã miền Bắc hay miền Trung: lối kiến trúc này làm lỏng lẽo các giây liên lạc của dân làng với làng xã. Chợ búa cũng trải dài mấy cây số dọc theo kinh rạch chứ không tập trung như các chợ miền Bắc, miền Trung.

c/. ảnh hưởng thủy lợi đến sử dụng đất đai

Miền đồng bằng sông Cửu Long ít bị lụt nên canh tác trồng trọt cũng khác miền Bắc.

Trong khi châu thổ sông Hồng có nhiều đê bao bọc để trị lũ lụt và tiến trình đắp đê, củng cố đê trải dài trong mọi triều đại thì miền châu thổ sông Cửu long không có đê, nhân dân chỉ trồng lúa theo nhịp nước lên xuống của nước: đó là lúa nổi thường gặp ở Châu Đốc, Long Xuyên. Nhờ Biển Hồ ở Kampuchea, nên nước vào ruộng, nước ra ruộng cũng từ từ nên những đơn vị gia đình nhỏ cũng khai thác lúa được, không cần những cộng đồng lớn.

Vì nhiều vùng còn là các trũng chịu ảnh hưởng của môi trường nước phèn, chua nên phải bỏ hoang hoặc phải canh tác trên các liếp như khóm, như mía để nước phèn có thể bị trôi đi; thủy triều cũng là một yếu tố thủy lợi người dân lợi dụng để cải thiện đất đai: thủy triều lên xuống 2 lần mỗi ngày giúp các chất phèn rửa trôi khi nước ròng; nhiều ruộng có cửa bọng giữ nước mưa và khi thủy triều xuống, nước sông trong kinh rạch thấp hơn mực nước trong ruộng nên nước phèn bị cuốn trôi đi.

d/. ảnh hưởng ngoại cảnh đến lối sống của dân

Vì tài nguyên dồi dào, dân ít phấn đấu ‘làm chơi ăn thiệt’ nên tính tình người dân cũng chất phác; tư duy ưa phóng khoáng, nói thẳng không quanh co; trải qua nhiều thế kỷ, nông dân tự do canh tác; rất ít nơi có đình làng.

e/. tài nguyên thiên nhiên trên cạn, dưới nước (cá, tôm...) ảnh hưởng đến văn hoá thức ăn: trong bữa cơm, nhiều món ăn luôn luôn có thêm nước dừa (thịt kho hột vịt nước dừa, chè đậu đỏ nước dừa...), phản ánh các ảnh hưởng của Đông Nam Á (Thái lan). Bữa ăn nhiều thủy sản như cá, mắm mà dặc biệt là mắm đủ loại, muôn hình muôn vẻ của vùng Long Xuyên.

Tản Đà có lần viết:

Hà tươi cửa bể Tourane,
Long Xuyên chén mắm, Nghệ An chén cà


f/. văn nghệ

Nói đến ĐBCL là nói ngay đến nước: thực vậy, kinh rạch ngổn ngang, bàu, ao, sông sâu sóng cả... Nhiều ca dao phản ánh kinh rạch chằng chịt với ghe thuyền buôn bán:

Chèo ghe sợ sấu cắn chưn,
Xuống bưng sợ đĩa lên rừng sợ ma.

Ghe anh đỏ mũi xanh lường,
Ở trên Gia Định xuống vườn thăm em.

Cái Răng, Ba Láng, Vàm Xáng, Xà No
Có thương em, anh mua cho một chiếc đò
Để em lên xuống thăm dò ý anh.

Anh đi ghe gạo Gò Công
Vô vàm Bao Ngược, gió giông đứt buồm.

Bước xuống bắc Mỹ Tho, thấy sóng xô nước đẩy
Bước lên bờ Rạch Miễu, thấy nước chảy vòng quanh
Anh biết chắc nơi đây là đất Châu thành
Sao tìm hoài không thấy trong đám bộ hành có em.


Miền châu thổ Cửu long có hát cải lương, hát vọng cổ, hò vè.

Hát cải lương chú trọng nhiều vào lời ca, tiếng hát và trong cải lương luôn luôn có hát vọng cổ.

Đèn treo ngọn ái, nước xoáy gò ân
Phải lương duyên thì xích lại cho gần
Kẻo mai kia vắng mặt, hai đứa thầm nhớ thương
Gặp anh vô cớ, em chẳng dám nhìn
Sợ chị lớn ở nhà, chị sanh tâm biến tính, hốt lửa lôi đình
Chỉ rình ngã ba, chỉ đón ngã bảy, không biết chết mình hay hại em.

Hò vè là một nét độc đáo khác của trong Nam với những câu đối đáp của trai gái chưa từng quen nhau trên các ghe dọc các dòng sông hoặc các điệu hò mộc mạc, khoan thai:

Chim buồn tình, chim bay về núi
Cá buồn tình, cá lủi xuống sông
Anh buồn tình, anh dạo chốn non Bồng,
Dạo miền sơn cước, xuống tới chốn ruộng đồng mới gặp được người thương.

Những lời ca ru em như:

Ví dầu cầu ván đóng đinh
Cầu tre lắc léo, gập ghềnh khó đi
Khó đi, mẹ dắt con đi
Con đi trường học, mẹ đi trường đời


Hoặc:

Gió đưa, gió đẩy về rẫy ăn còng
Về sông ăn cá, về đồng ăn cua


Hoặc:

Ra đi mẹ có dặn dò
Sông sâu đừng lội, đò đầy đừng đi.


Hò trên bộ (có chỗ còn gọi là lý) như hò cấy lúa, gặt lúa đêm trăng. Hò dưới sông thì có hò chèo ghe, đem theo chút thi vị trên sông nước bồng bềnh:

Nước chảy lơ đờ, đôi bờ xuôi ngược
Đường đi non nước rộng rãi, thênh thang
Ta vui đi khắp xóm làng
Mặc cho chớp biển, mưa ngàn vẫn vui.


Tình yêu trắc trở, người con gái phải bỏ người yêu để đi lấy chồng như trong bài thơ Hai sắc hoa ti gôn của T. T. K. H:

Nếu biết rằng tôi đã lấy chồng,
Trời ơi người ấy có buồn không
Nhưng chàng trai cũng không oán người yêu:

Ra đi anh có dặn rằng
Đâu hơn bậu lấy, đâu bằng đợi anh.


12. Các vấn đề môi sinh

Ngày nay, môi sinh miền Châu thổ Cửu long bị nhiều ảnh hưởng do nhiều nguyên nhân: dân số càng ngày càng đông, sự sử dụng những chất thuốc sát trùng không đúng liều lượng, xịt nhiều thuốc, dù sâu bọ chưa vượt qua ngưỡng độc hại, nhiều loại thuốc các nước tiền tiến không còn sử dụng nữa mà Việt Nam còn nhập cảng, các nhà máy không có biện pháp xử lý chất thải trước khi đổ vào sông, sự đô thị hoá không chủ động được.

Rùa càng lúc càng bị tàn sát; trước kia, có câu ca dao:

Thương thay cho kiếp con rùa
Dưới sông cõng hạc, trên chùa đội bia.


Rùa trước kia chỉ cõng hạc, đội bia, còn ngày nay rùa bị dân châu thổ Cửu long tàn sát hàng loạt cho các quán ăn nhậu; mai rùa, yếm rùa bán cho các tiệm thuốc Bắc. Rắn trong đồng để bắt chuột, mèo để bắt chuột, nhưng ngày nay, rắn, mèo cũng là đặc sản nhậu; ăn thịt mèo được gọi là ăn hổ đồng bằng. Cán cân sinh thái mất thăng bằng; nạn giết rắn, ăn hổ đồng bằng đã làm cho chuột sinh sản mạnh hơn, phá hoại ngũ cốc ngoài đồng, trong vựa.

Nhiều đập nước trên thượng lưu dòng sông Mekong, từ trên Vân Nam của Trung Quốc đến Lào, Thái đã khiến lưu lượng dòng chảy bớt đi và ít lụt hơn, nhiều cánh đồng trước kia gặp lụt lớn tràn lên nên chuột chết nhiều; ngày nay các bãi đồng không bị nước lụt tràn đến nên chuột sinh sản thêm.

Tại miền châu thổ, có nhiều bãi chim sống tại các rừng tràm; ven duyên hải nhiều loại cò: cò quắm, cò xám, cò nâu, cò vàng, cò trắng mỏ đen, cò trắng mỏ vàng, cò trắng đầu đỏ và nhiều chim các loài như cưỡng, sáo. Có thể sử dụng các bãi chim làm du lịch sinh thái, thay vì giết hàng loạt (overhunting) hoặc đốn rừng bừa bãi (overcutting) khiến chim muông không nơi trú ẩn.

Vì khai thác quá độ thủy sản trên sông (overfishing) nên tài nguyên cá cũng bị tổn hại nhiều. Nhiều vùng có mật độ đáy phân bố trên sông rất dày. An Giang, Đồng Tháp có những đáy dài đến 100-150 mét và các đáy có mắt lưới rất nhỏ nên nhiều cá con kể cả con ruốc cũng bị chết nên không thể làm giống để nuôi được. Đối với cào cũng vậy: mắt lưới nhỏ và cào sát đáy nên cũng lạm sát cá-tôm đồng thời gây cản trở lưu thông trên sông. Lại thêm cào điện làm mọi loài cá đều bị chết. Nhiều loài cá có giá trị trên sông trở nên hiếm như cá hô, cá tra dầu, cá bống tượng. Do đó, cần có các biện pháp như nghiêm cấm cào điện. Không những rắn, rùa càng ngày bị khan hiếm mà tại các quán ăn Saigon hiện nay còn các đặc sản như nai, mễn, heo rừng, ba ba... như vậy tài nguyên sinh vật trong rừng chẳng bao lâu sẽ hết.

Sự an toàn lương thực đòi hỏi tài nguyên nhiều hơn, trong khi nguồn nước là một vấn đề nan giải vì nước sinh hoạt, nước trồng tiả, nước dùng trong kỷ nghệ, nhà máy có giới hạn của nó. Bơm nước nhiều (overpumping) làm nước mặn xâm nhập sâu hơn vào đất nội địa, chưa kể dến cản trở lưu thông trên sông ngòi vì lượng nước thấp tàu bè trọng tải lớn không chạy được.

Đa dạng sinh học

Sự thâm canh lúa bằng cách bón phân đạm quá nhiều làm lúa dễ mẫn cảm đối với sâu bệnh; ruộng bón quá nhiều đạm tạo ra các ổ dịch bệnh cháy lá (Pyricularia oryzae), bạc lá (Xanthomonas oryzae), khô vằn (Rhizoctonia solani), và rầy nâu (Nilaparvata lugens).

Đa dạng sinh học giảm đi (ít giống lúa, ít giống hoa màu, ít thảm thực vật) gây thêm nhiều rủi ro về kháng sâu bệnh; hoá chất sử dụng quá liều cũng tăng các rủi ro.

Phá rừng vì 3 C

3 C từ ba chữ sau đây: conversion, consumption, corruption

Những sự so sánh bằng không ảnh, vệ tinh cho thấy diện tích rừng ngập mặn ven duyên hải biển Đông bị suy giảm nghiêm trọng: phá rừng nuôi tôm trong khi đó rừng này là nơi tôm cá sinh trưởng; phá rừng bừa bãi làm giảm luôn đa dạng sinh học.

Các rừng tràm bị đốn phá lấy củi; nước mặn làm hủy hoại rừng tràm vì tràm chịu vùng nước lợ mà thôi. Tóm lại phải có cân bằng sinh thái song song với lợi ích kinh tế xã hội vì khi cán cân sinh thái đã nghiêng rồi thì cũng khó lập lại cân bằng.

Nhiều diện tích rừng khai hoang để lấy đất trồng trọt do gia tăng dân số quá nhanh; do gia tăng dân số, do nhu cầu xuất cảng bằng mọi giá, phá rừng để nuôi tôm, để lấy củi; tham nhũng để cho giấy phép chuyên chở, cho giấy sử dụng đất đai, cấu kết với mọi cấp chính quyền. Tham nhũng nay đã trở thành một định chế trên mọi lãnh vực.

Diện tích rừng ngập mặn ven duyên hải biển Đông cũng như rừng tràm bị suy giảm nghiêm trọng. Phá rừng ngập mặn nuôi tôm trong khi đó rừng này là nơi tôm cá sinh trưởng; phá rừng bừa bãi làm giảm luôn đa dạng sinh học. Các rừng tràm bị đốn phá lấy củi; nước mặn làm hủy hoại rừng tràm vì tràm chịu vùng nước lợ mà thôi. Tóm lại phải có cân bằng sinh thái song song với lợi ích kinh tế xã hội vì khi cán cân sinh thái đã nghiêng rồi thì cũng khó lập lại cân bằng.

Các biện pháp pháp lý như luật môi sinh chưa đủ mà còn phải được áp dụng nghiêm minh.

Hiện tại và tương lai con người tùy thuộc vào sự bảo vệ tài nguyên vì giừa con người và thiên nhiên có các tác động qua lại; liên kết lợi ích con người và quan tâm đến môi sinh đó là phương cách hợp lý nhất để bảo vệ thiên nhiên; bằng cách đó, mỗi người cảm thấy có ý thức trách nhiệm về tài nguyên thiên nhiên và việc sử dụng đúng đắn.

Môi sinh và dân số cũng có tương quan chặt chẻ; thực vậy năm 1979, toàn châu thổ có 11 914 000 người và chỉ 14 năm sau (1993), đã tăng lên đến 15 531 600 người, nghiã là tăng thêm 2. 2% mỗi năm. (ở Pháp chỉ tăng 0. 3% mỗi năm và Trung Quốc 1. 4%). Với 2. 2% mỗi năm dân số sẽ xấp đôi sau 32 năm! đó là overpopulation.

Theo đà đô thị hoá và tăng gia dân số, nhịp độ chuyển từ đất nông nghiệp sang đất xây dựng (đất nhà ở, đất trường học...) ngày một nhanh do đó, đất nông nghiệp cũng sẽ giảm nhanh, kéo theo sự sút giảm diện tích canh tác cho mỗi lao động nông nghiệp.

Tại sao một ‘O ‘ lại đẻ ra 4 ‘U ‘?

Sự gia tăng dân số quá nhanh (Overpopulation) gây ra nhiều hệ quả như sau:

- nghèo đói, suy dinh dưỡng nhất là trên các trẻ em (Undernutrition).

- thất học nhiều, nhất là vùng nông thôn (Undereducation), không đủ ăn, thiếu dinh dưỡng thì làm sao tập trung trí óc vào việc học được

- diện tích canh tác nhỏ dần kéo theo tình trạng khiếm dụng nhân công (Underemployment) đang xảy ra ở thôn quê: phần lớn hiện nay chỉ làm việc dưới 200 ngày trong một năm; thời gian rảnh rổi được thi vị hoá dưới danh từ nông nhàn thì ăn nhậu say sưa.

- thành phần trẻ trong dân số rất cao, áp lực mỗi năm trên thị trường nhân công đè nặng, nhiều thất nghiệp (Unemployment).

13. Kết luận

ĐBCL, cách đây 250 năm, là nơi ‘muỗi kêu như sáo thổi, đĩa lội như bánh canh’ ngày nay đã là một vùng giàu có nhất nước: lúa, cây ăn trái, kỹ nghệ, đó là nhờ nhiều công trình thủy lợi, ngay từ đời nhà Nguyễn, qua Pháp thuộc mãi cho đến ngày nay: kênh mương, công trình ngăn mặn, rửa phèn...Tuy nhiên càng ngày càng có những dấu hiệu hạn chế do nhiều lý do:

a/ sự bùng nổ dân số, sự đô thị hoá làm quỹ đất canh tác càng ngày càng giảm dần

b/ các công trình thủy lợi trên thượng lưu sông Mekong làm giảm lưu lượng trên sông, khiến nước mặn xâm nhập sâu hơn vào nội địa nên không thể làm lúa vào mùa nắng ở các vùng nhiễm mặn. Ngoài ra, để tận dụng nguồn nước ngọt (nưóc mưa), nên thực hiện trồng 2 vụ lúa ngắn ngày trong mùa mưa hoặc trồng những nông sản ít nhu cầu nước như cây ăn trái, rau cải.

c/ sự phá rừng bừa bãi trên các giải duyên hải để nuôi tôm bán thâm canh, sau những năm đầu hồ hởi nhưng ngày nay, hàng loạt tôm chết trong khi đó các đìa nuôi tôm thành hoang phế mà rừng duyên hải là nơi tôm cá sinh sản và giúp chống sự xói mòn các sóng biển.

d/ vì quỹ dất canh tác càng ngày càng hẹp dần do dân số tăng nhanh nên cần có những giải pháp lâu dài và đồng bộ như tạo ra những nguồn thu khác nhau trong nông nghiệp (cây ăn trái, rau đậu, hải sản) lẫn ngoài nông nghiệp như các dịch vụ ngân hàng, bảo hiểm, thương mãi, chuyên chở, các công nghệ biến chế, năng lượng, may mặc... Cần đẩy mặn sự chế tạo các sản phẩm xuất cảng được ngay ở vùng nông thôn để sử dụng nhân công dư thừa, song song với việc phát triển cơ sở hạ tằng ở nông thôn (điện, nước, đường) chứ không nên tập trung quá đáng vào các vùng đô thị và cận đô thị.

Thực vậy, mọi người đều đồng ý có sự liên quan giữa dân số với tài nguyên thiên nhiên. Phân tích những động lực và cản trở phát triển, đi tìm những khả năng và hạn chế trong xu thế phát triển là tìm kiếm một chính sách phát triển lâu bền. Trong sự phát triển bền lâu, phải có sự cân đối giữa 3 khía cạnh sau đây:

Phát triển kinh tế (nông nghiệp, công nghệ), tiến bộ xã hội (y tế, giáo dục, nâng cao dân trí, sinh đẻ có kế hoạch…) và bảo vệ môi sinh; đó là ‘cái kiềng ba chân’ của sự phát triển bền vững (PTBV); đó là khai thác đúng mức tài nguyên, không lạm thác, không cạn kiệt để cho các thế hệ sau cũng còn hưởng lợi nữa.

e/ tại những vùng ít có khả năng nông nghiệp như vùng đất mặn, phèn nặng thì việc trồng rừng, kết hợp với chăn nuôi thủy sản là cần làm: trồng rừng không những để cung cấp củi gổ cho nhu cầu xã hội mà còn bảo vệ môi sinh đa dạng, giúp cho chim, cá có nơi sinh tồn.

f/ Đào tạo thêm các nghề nghiệp mới để bớt sức ép thất nghiệp, mà súc ép thất nghiệp là do sức ép dân số cao. Vấn đề dư thừa lao động ở nông thôn quả thật là bức xúc trong bối cảnh hiện nay.

g/ phải chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng tăng dần tỉ trọng công nghiệp và ngay tại nông thôn: xây dựng kỷ nghệ chế biến nông sản ( trái cây, mía đường, thơm...), hải sản (nhà máy đông lạnh thủy sản như tôm đông, mực đông, cá đông...), súc sản (trứng vịt, heo), sửa chửa, lắp ráp máy (nông cơ), sản xuất vật liệu xây dựng.

Đây là một biện pháp giúp tránh việc đô thị hoá quá mức; đây là một phương cách đô thị hoá nông thôn bằng nguồn năng lượng khai thác ngay trong xã hội nông thôn (nhân lực, tay nghề, vốn liếng) để tránh tình trạng khiếm dụng lao động nông thôn.


© Thái Công Tụng
    Nam Kỳ Lục Tỉnh
ĐBCL, cách đây 250 năm, là nơi ‘muỗi kêu như sáo thổi, đĩa lội như bánh canh’ ngày nay đã là một vùng giàu có nhất nước: lúa, cây ăn trái, kỹ nghệ, đó là nhờ nhiều công trình thủy lợi, ngay từ đời nhà Nguyễn, qua Pháp thuộc mãi cho đến ngày nay: kênh mương, công trình ngăn mặn, rửa phèn...Tuy nhiên càng ngày càng có những dấu hiệu hạn chế do nhiều lý do:

a/ sự bùng nổ dân số, sự đô thị hoá làm quỹ đất canh tác càng ngày càng giảm dần

b/ các công trình thủy lợi trên thượng lưu sông Mekong làm giảm lưu lượng trên sông, khiến nước mặn xâm nhập sâu hơn vào nội địa nên không thể làm lúa vào mùa nắng ở các vùng nhiễm mặn. Ngoài ra, để tận dụng nguồn nước ngọt (nưóc mưa), nên thực hiện trồng 2 vụ lúa ngắn ngày trong mùa mưa hoặc trồng những nông sản ít nhu cầu nước như cây ăn trái, rau cải.

c/ sự phá rừng bừa bãi trên các giải duyên hải để nuôi tôm bán thâm canh, sau những năm đầu hồ hởi nhưng ngày nay, hàng loạt tôm chết trong khi đó các đìa nuôi tôm thành hoang phế mà rừng duyên hải là nơi tôm cá sinh sản và giúp chống sự xói mòn các sóng biển.

d/ vì quỹ dất canh tác càng ngày càng hẹp dần do dân số tăng nhanh nên cần có những giải pháp lâu dài và đồng bộ như tạo ra những nguồn thu khác nhau trong nông nghiệp (cây ăn trái, rau đậu, hải sản) lẫn ngoài nông nghiệp như các dịch vụ ngân hàng, bảo hiểm, thương mãi, chuyên chở, các công nghệ biến chế, năng lượng, may mặc... Cần đẩy mặn sự chế tạo các sản phẩm xuất cảng được ngay ở vùng nông thôn để sử dụng nhân công dư thừa, song song với việc phát triển cơ sở hạ tằng ở nông thôn (điện, nước, đường) chứ không nên tập trung quá đáng vào các vùng đô thị và cận đô thị.

Thực vậy, mọi người đều đồng ý có sự liên quan giữa dân số với tài nguyên thiên nhiên. Phân tích những động lực và cản trở phát triển, đi tìm những khả năng và hạn chế trong xu thế phát triển là tìm kiếm một chính sách phát triển lâu bền. Trong sự phát triển bền lâu, phải có sự cân đối giữa 3 khía cạnh sau đây:

Phát triển kinh tế (nông nghiệp, công nghệ), tiến bộ xã hội (y tế, giáo dục, nâng cao dân trí, sinh đẻ có kế hoạch…) và bảo vệ môi sinh; đó là ‘cái kiềng ba chân’ của sự phát triển bền vững (PTBV); đó là khai thác đúng mức tài nguyên, không lạm thác, không cạn kiệt để cho các thế hệ sau cũng còn hưởng lợi nữa.

e/ tại những vùng ít có khả năng nông nghiệp như vùng đất mặn, phèn nặng thì việc trồng rừng, kết hợp với chăn nuôi thủy sản là cần làm: trồng rừng không những để cung cấp củi gổ cho nhu cầu xã hội mà còn bảo vệ môi sinh đa dạng, giúp cho chim, cá có nơi sinh tồn.

f/ Đào tạo thêm các nghề nghiệp mới để bớt sức ép thất nghiệp, mà súc ép thất nghiệp là do sức ép dân số cao. Vấn đề dư thừa lao động ở nông thôn quả thật là bức xúc trong bối cảnh hiện nay.

g/ phải chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng tăng dần tỉ trọng công nghiệp và ngay tại nông thôn: xây dựng kỷ nghệ chế biến nông sản ( trái cây, mía đường, thơm...), hải sản (nhà máy đông lạnh thủy sản như tôm đông, mực đông, cá đông...), súc sản (trứng vịt, heo), sửa chửa, lắp ráp máy (nông cơ), sản xuất vật liệu xây dựng.

Đây là một biện pháp giúp tránh việc đô thị hoá quá mức; đây là một phương cách đô thị hoá nông thôn bằng nguồn năng lượng khai thác ngay trong xã hội nông thôn (nhân lực, tay nghề, vốn liếng) để tránh tình trạng khiếm dụng lao động nông thôn.

u?n

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

Post Bottom Ad