Cuộc tổng tấn công Tết Mậu Thân (phần 2) - Người Đưa Tin -->

Breaking

Post Top Ad

Chủ Nhật, 4 tháng 2, 2018

Cuộc tổng tấn công Tết Mậu Thân (phần 2)


Một phần Quận Chợ Lớn của Sài Gòn sau cuộc tấn công Tết Mậu thân năm 1968 (Ảnh: Bettman-Corbis)

Nhận định của phía CS

Khi quyết định mở một cuộc tổng tấn công trên lãnh thổ miền Nam vào dịp Tết Mậu Thân 1968, Bắc Việt đã có những nhận định sau đây:

Hà Nội tin tưởng người dân Miền Nam đã muốn ngã theo chính quyền Hà Nội cùng đường lối cách mạng của họ. Sự tin tưởng này được nhìn qua các phong trào "nhân dân cứu quốc," phong trào tranh đấu của Phật Giáo tại miền Trung và ở thủ đô Saigon, và các sự phân tán của các đoàn thể tại Miền Nam Việt Nam. Họ cho rằng nhân dân miền Nam ghét Mỹ, chán chiến tranh. Và nếu có một động cơ nào đó thúc đẩy thì người dân Miền Nam sẽ nổi dậy chống Mỹ và lật đổ chính quyền hiện Quốc Gia.

Sau cuộc đảo chánh lật đổ chế độ Ngô Đình Diệm, Hà Nội cho rằng chính quyền miền Nam Việt Nam đã hoàn toàn suy yếu. Quân đội Việt Nam Cộng Hòa cũng yếu kém đi và không có khả năng tấn công cũng như phòng thủ.

Bắc Việt tin tưởng rằng các lực lượng võ trang của họ vẫn giữ được thế chủ động chiến trường (tại miền Nam) trong các năm 1966-67 và cho rằng nếu mở trận tổng công kích vào đầu năm 1968 thì họ sẽ có hai thời cơ chiến lược và một thời cơ chiến thuật để bảo đảm cho sự tất thắng của họ.

Thời Cơ Chiến Lược 1: Bắc Việt cho rằng cuối năm 1968, Hoa Kỳ có cuộc bầu cử Tổng Thống mà hiện nay (đầu năm 1968) đang diễn ra cuộc vận động tranh cử có các ứng viên như các ông Robert Kennedy và Richard Nixon đang chỉ trích chánh sách chiến tranh của đương kim tổng thống Lyndon Johnson. Ngoài ra, ở Mỹ đang có phong trào chống đối chiến tranh tại Việt Nam và đang lan rộng trên toàn quốc. Bắc Việt dự tính nếu cuộc tổng công kích thành công, và một chính-phủ liên-hiệp được thành lập, thì Tổng Thống Johnson (sắp hết nhiệm kỳ) sẽ gặp khó khăn trong việc tăng viện binh sĩ sang Việt Nam. Vì vậy, có thể Hoa Kỳ sẽ phải chấp nhận một cuộc điều đình có lợi cho chính quyền Cộng Sản Miền Bắc.

Thời Cơ Chiến Lược 2: Dư luận quốc tế đang hướng về Việt Nam và đang chỉ trích vai trò của Hoa Kỳ trong cuộc chiến. Nếu Việt Cộng tạo được chiến thắng lớn lao, họ sẽ gây được tiếng vang và có lẽ sẽ đạt được nhiều sự ủng hộ của quốc tế để chấm dứt cuộc chiến.

Thời Cơ Chiến Thuật: Bắc Việt muốn tạo một sự bất ngờ trong lãnh vực quân sự khi họ mở cuộc tổng tấn công và đánh vào ngày Tết trong khi lệnh hưu chiến (ăn Tết 3 ngày) tại miền Nam đã được ban hành.

Với ba điều nhận định trên, chính quyền Miền Bắc tin tưởng chiến dịch tổng tấn công sẽ thành công. Tuy nhiên họ cũng dự liệu đến trường hợp thất bại, và cho rằng lực lượng Việt Cộng tại miền Nam hiện thời đã đứng vững trên 2 "chân" rừng núi và nông thôn. Nếu từ hai chỗ đứng này họ dốc toàn quân đánh vào thành thị, nếu thắng thì ăn to, nhưng nếu không thắng thì lại trở về 2 "chân" cũ là rừng núi và nông thôn, chẳng mất mát gì cả.

Trong kế hoạch tổng tấn công, Việt Cộng dựa vào sự bất ngờ để mong đánh chiếm được các cơ quan quân sự đầu não của Việt Nam Cộng Hòa. Qua sự kết hợp giữa quân sự với chính trị, họ chiếm mau lẹ được các thành phố lớn bằng sự nổi dậy của người dân miền Nam khắp mọi nơi. Trước tình hình này, Việt Cộng cho rằng quân đội Hoa Kỳ và Việt Nam Cộng Hòa có mạnh mẽ đến đâu cũng không dám oanh kích vào dân chúng (khởi nghĩa), nhất là oanh kích vào thủ đô Saigon với dân số đến 3 triệu người.

Như thế dư luận quốc tế sẽ lên án và Hoa Kỳ sẽ đành bó tay. Và khi đã có một chính phủ mới, Việt Cộng tin rằng tất cả các đơn vị của Việt Nam Cộng Hòa có thể sẽ phải đầu hàng. Nếu các đơn vị này không chịu đầu hàng, lúc đó họ sẽ vận dụng quân đến thanh toán dần từng chỗ, hoặc vận dụng thân nhân của các binh sĩ Việt Nam Cộng Hòa phối hợp cùng dân chúng qua sự yểm trợ của các cán binh Cộng Sản (tức cho thân nhân binh sĩ Việt Nam Cộng Hòa và dân đi trước) ồ ạt ùa vào chiếm các vị trí quân sự thì lúc đó các binh sĩ miền Nam sẽ không thể phản ứng được gì cả.

Tổng quan về diễn biến

Đêm 30 Tết, tức ngày 29 tháng 1/1968, Việt Cộng đồng loạt tấn công vào 5 thị xã (thị xã thời VNCH khác với cách hiểu bây giờ) thuộc Vùng 2 Chiến Thuật:


  • Thị xã Qui Nhơn lúc 4 giờ 10.
  • Thị xã Kontum lúc 2 giờ 00.
  • Thị xã Pleiku lúc 4 giờ 40.
  • Thị xã Darlac lúc 1 giờ 30.
  • Thị xã Nha Trang lúc 0 giờ 30.


Đồng thời, Việt Cộng pháo kích và đột nhập vào Tổng Hành Dinh Quân Đoàn 1 lúc 3 giờ 40 sáng.

Như vậy trong 44 tỉnh lỵ, Việt Cộng đã tấn công vào 28 nơi. Cuộc tấn công của Việt cộng kể ra cũng khá linh hoạt, tuy không diễn ra trong một lúc nhưng khoảng cách của các trận đánh ở các tỉnh lỵ không quá rời rạc.

Tính ra như vậy đêm 30 Tết, Việt Cộng mở được 5 cuộc tấn công vào các tỉnh Cao Nguyên và miền Trung. Đêm mồng 1 Tết, Việt Cộng mở được 8 cuộc tấn công vào các tỉnh lỵ và thị xã trong đó có đô thành Saigon - Chợ Lớn - Gia Định.

Với 8 cuộc tấn công này trong đó có 4 thành phố Huế, Quảng Trị, Quảng Tín và Quảng Ngãi thuộc Vùng 1 Chiến Thuật, thành phố Phan Thiết thuộc vùng 2 Chiến thuật và 2 thành phố Cần Thơ, Vĩnh Long thuộc Vùng 4 Chiến Thuật. Người ta nhận thấy rằng trong 2 ngày liên tiếp tất cả các tỉnh lỵ thộc Vùng 1 Chiến Thuật đều bị đánh. Các tỉnh lỵ thuộc vùng 2 Chiến Thuật cũng bị đánh gần hết. Riêng Vùng 4 Chiến Thuật mới bị chóm đánh vào 2 tỉnh Cần Thơ và Vĩnh Long.

Đêm mồng 3 Tết, Việt Cộng lại đánh vào 8 tỉnh lỵ khác gồm 5 thành phố Kiến Hòa, Định Tường, Gò Công, Kiên Giang, Vĩnh Bình thuộc vùng 4 Chiến Thuật, 2 thành phố Bình Dương, Biên Hòa thuộc Vùng 3 Chiến Thuật, và thành phố Tuyên Đức thuộc Vùng 2 Chiến Thuật.

Qua ngày mồng 3 Tết, tức ngày 1 tháng 2/1968, hoạt động của Việt Cộng trên toàn quốc có phần suy giảm tuy họ vẫn bám sát được vào một vài thành phố như Saigon, Huế, Ban Mê Thuột, Kontum, Mỹ Tho và Vĩnh Long. Còn tại các nơi, các phần tử Việt Cộng thất tán trong các khu dân cư và đang bị tiêu diệt.

Ngày mồng 4 Tết, Việt Cộng mở một cuộc tấn công yếu ớt vào thị xã Kiến Tường và một cuộc tấn công khác vào các đơn vị trú phòng tại Long Khánh nhưng đều bị đẩy lui ngay.

Ngày mồng 5 Tết, hoạt động của Việt Cộng tại các vùng Chiến thuật suy giảm rõ rệt. Riêng tại Huế địch vẫn còn chiếm đóng và hoạt động mạnh. Tại thủ đô Saigon, các phần tử Việt Cộng trà trộn trong khu dân cư đang bị thanh toán lần lần.

Ngày mồng 5 và 6 Tết, Việt Cộng còn mở những cuộc tấn công muộn vào tỉnh lỵ Gò Công, Bộ Tư Lệnh Biệt Khu 44, nhưng không gây được sự thiệt hại nào đáng kể.

Ngày mồng 8 âm lịch, tức ngày 6 tháng 2 năm 1968, tỉnh Thừa Thiên vẫn được đáng chú ý hơn cả, tiếp đến là đô thành Saigon - Chợ Lớn và Phong Dinh. Tại Phong Dinh trận chiến đã diễn ra trong 2 đợt: đợt đầu kéo dài trên một tuần lễ và đợt thứ 2 vào đêm 14 rạng ngày 15 tháng 2/1968. Tại các nơi khác, Việt Cộng tiếp tục duy trì các cuộc pháo kích và khuấy rối đặc biệt là Vùng 1 và Vùng 4 Chiến Thuật.

Ngày 7 tháng 2/1968, Việt Cộng lần đầu tiên xử dụng chiến xa xuất phát từ biên giới Lào, vượt quốc lộ 9 tấn công căn cứ Làng Vei gần Khe Sanh khiến trại này bị thất thủ vào lúc 18 giờ 40. Quân đồn trú chỉ còn 72 người rút lui về Khe Sanh, số còn lại 316 người coi như chết và mất tích. Trong khi đó, Thủy Quân Lục Chiến Hoa Kỳ tại Huế đã tái chiếm một phần lớn khu vực hữu ngạn sông Hương. Việt Cộng phải rút ra cố thủ tại vùng ngoại ô.

Sáng ngày 10 tháng 2/1968, Việt Cộng đột nhập thị xã Bạc Liêu đốt trên 1,000 căn nhà của dân chúng. Tại Huế, Việt Cộng còn duy trì áp lực tại vùng Cửa Hữu và khu vực Bắc cầu Bạch Hổ. Các thị xã và thị trấn khác đều được giải tỏa. Tại đô thành Saigon - Chợ Lớn, quân đội VNCH tiếp tục mở các cuộc lục soát trong nội thành và hành quân tảo thanh vùng ven độ. Các lực lượng Việt Cộng lần lượt rút ra xa đô thành.

Tình hình Khe Sanh cũng yên tĩnh sau vụ thất thủ Làng Vei.

Tại khắp các thành phố và đô thị, Việt Cộng đã tung vào trận đánh rất nhiều cán bộ chính trị để xúc tiến việc thành lập những chính quyền mới. Họ tạo dựng một tổ chức chính trị mới gọi là "Mặt Trận Liên Minh Dân Tộc Dân Chủ và Hòa Bình," một tổ chức tổng hợp các đảng Miền Nam đại diện cho tất cả màu sắc chính trị. Mặt trận này cũng là một loại tổ chức như Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam do Cộng Sản miền Bắc gầy dựng và giật dây. Mặc dầu rằng vào tháng 8 năm 1967, Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam đã đưa ra một bản cương lĩnh mới với mục đích mở rộng nền móng tổ chức mặt trận và để lập một chánh phủ đoàn kết quốc gia ở Miền Nam, nhưng mặt trận này cũng vẫn không thu thập được sự ủng hộ của nhiều người.

Khi cuộc tổng tấn công Tết Mậu Thân xảy ra, Hà Nội tung ra tổ chức Liên Minh Dân Tộc Dân Chủ Và Hòa Bình là có ý thu hút cấp thời ngay được các giới trí thức ở các thành thị vào các liên minh chính trị mới và những liên minh mới này sẽ góp vai trò trong một chính phủ liên hiệp tương lai.

Tại thủ đô Saigon, Mặt Trận Liên Minh Dân Tộc Dân Chủ Và Hòa Bình do luật sư Trịnh Đình Thảo, ông Lâm Văn Tết cùng Thượng Tọa Thích Đôn Hậu cầm đầu. Thành phần này thuộc trong tổ chức trung ương. Còn tại Huế, một tổ chức loại này cũng thật sự ra mặt hoạt động và do giáo sư Lê Văn Hảo cầm đầu. Tổ chức này đã gây ra nhiều xáo trộn chính trị tại thành phố Huế.

Kế hoạch TTC

Thoạt đầu, từ trước những ngày Tết, Việt Cộng cho xâm nhập vũ khí đạn dược chất nổ vào thành phố và đô thị bằng cách mang tay qua các vùng ven đô ven thị, bằng chuyển vận trên các xe chở hàng hóa qua các cửa ngõ kiểm soát vào trong thành phố. Thường thường Việt Cộng dấu vũ khí đạn dược trong hòm xe, trên chất hàng hóa. Nhất là các xe chở dưa hấu.

Trong dịp Tết, Việt Cộng lọt qua các trạm kiểm soát tài nguyên yên ổn và không có một trường hợp bị bắt nào xảy ra. Chuyên chở vũ khí vào thành phố trên các xe chở hàng đã được nhiều tù binh Việt Cộng xác nhận. Việt Cộng còn cho vũ khí xâm nhập vào thành phố trên các ghe chở cát và khi bốc cát lên bờ, vũ khí được dấu để ngay dưới đống cát.

Các vũ khí đạn dược ngoài sự dấu diếm trong các nhà của cán binh nội thành, phần nhiều được dấu ở các nghĩa địa, như tường hợp ở thủ đô Saigon trong dịp Tết. Việt Cộng dấu trong các quan tài chôn xuống đất và vì là mùa khô nên đạn dược súng ống không bị hư hỏng rỉ sét. Các nghĩa địa được chọn dấu vũ khí sẽ biến thành những địa điểm tập trung và phân phát vũ khí trước khi hành sự.

Mặt khác, các cán bộ nằm vùng trong nội thành đại để như các cán bộ cơ sở tiếp rước, cán bộ cơ sở tiếp trú, cán bộ tiếp tế, cán bộ xây dựng cán bộ kinh tài, cán bộ phụ trách các giới, cán bộ cơ sở liên lạc, cán bộ liên lạc đặc biệt, cán bộ cơ sở rải truyền dơn, cán bộ truyền tin và đặc công, người nào việc ấy đều được học tập để chuẩn bị cho các công tác sắp tới. Việt Cộng cho rằng các trận đánh thành hay bại là do nơi các đặc công mà họ coi là những thành phần cốt cán và ưu tú nhất.

Vào những ngày giáp Tết, Việt Cộng cho nhiều đơn vị cải trang thường dân với đầy đủ giấy tờ hợp lệ, xâm nhập vào nội thành và họ đã lọt vào các thành phố, còn được đưa đi ăn, đi coi hát và được dẫn đến những địa điểm được lựa chọn làm mục tiêu tấn công để quan sát trước khi đánh.

Kế hoạch đánh chiếm các thành phố và đô thị của Việt Cộng đã được hoạch định như sau:

Chọn lựa các mục tiêu quyết định như cứ điểm quan trọng quân sự, cơ quan đầu não hành chánh. Để đánh chiếm các mục tiêu này, Việt Cộng xử dụng các đơn vị đặc công hoặc đã nằm sẵn trong thành phố, hoặc xâm nhập từ ven biển vào. Các đơn vị này võ trang súng B-40, B-41 (súng phóng lựu, thường dùng để chống thiết giáp), cùng súng AK và các chất nổ xung kích vào các mục tiêu một cách bất ngờ để làm chủ tình hình mau chóng.

Cho quân tràn vào các khu đông dân cư nhất gồm các khu dân cư lao động. Phối hợp với các đơn vị quân sự, họ mang theo nhiều cán bộ chính trị để xúi dục dân chúng thành phố nổi dậy, cướp chính quyền lập một tổ chức chính trị mới. Để chuẩn bị cho kế hoạch tổng công kích - tổng khởi nghĩa, vào cuối năm 1967 Hà Nội đã cho xâm nhập vào Miền Nam trên 300 cán bộ trí thức gồm đủ thành phần như giáo sư, giảng sư đại học, kỹ thuật gia điện ảnh, văn nghệ sĩ, kỹ sư, bác sĩ, v.v... Họ được phân chia đều cho các tỉnh để làm nồng cốt cho việc tổ chức một mặt trận chính trị và văn hóa sau ngày tổng công kích thành công.

Để tham dự vào cuộc tổng công kích, Việt Cộng đã huy động lối 97 tiểu đoàn. Những tiểu đoàn này đều mang những danh hiệu đơn vị quen thuộc, nhưng các thành phần binh sĩ đa số gốc tại Bắc Việt mới xâm nhập vào trước trận đánh chừng 2 đến 3 tháng. Có rất nhiều cán binh Việt Cộng còn là con nít dưới 15 tuổi. Không biết Việt Cộng đã nghĩ sao mà đem đám trẻ thơ non dại này vào chiến trận để hủy diệt cuộc đời đầy thanh xuân và hy vọng của các em... Những cán binh này chưa quen trận mạc, thiếu kinh nghiệm chiến trường, ngỡ ngàng trước trận địa là nhà cửa và thành phố. Lý do chính của sự thất bại của Việt Cộng một phần lớn do ở khả năng tác chiến kém cỏi của những cán binh trẻ tuổi này.

Kế hoạch tổng công kích - tổng khởi nghĩa đã được giữ bí mật đến khi trận đánh xảy ra trên toàn quốc. Sự thống nhất chỉ huy của Việt Cộng cũng có phần mạch lạc, phát khởi các trận đánh tại các tỉnh lỵ vào một thời gian không xê xích mấy. Có lẽ Việt Cộng đã lấy mốc đêm giao thừa Tết Mậu Thân năm 1968 để làm chuẩn thời gian phát động chiến dịch tổng tấn công. Ngoài ra, các đơn vị Việt Cộng tham dự trực tiếp các trong trận đánh đã dùng chiến thuật bôn tập để tránh mọi sự tiết lộ trước khi đánh. Trong kế hoạch tổng tấn công này, Việt Cộng đã dự liệu đến phương thức "Nhất Điểm Lưỡng Diện." Họ đã bày ra "diện" bằng những hoạt động cầm chân vào đầu năm 1968 tại Khe Sanh để dồn quân bất ngờ đánh vào "điểm" là các thành phố và thủ đô.

(Còn nữa)




Dương Quốc Chính
FB Dương Quốc Chính


Phần này mình trích nguyên văn từ sử gia Phạm văn Sơn, vì phía VNCH là bên chịu thiệt hại chính, là chiến trường trực tiếp, nên họ có được những báo cáo, đánh giá, số liệu thống kê thực tế nhất mà phía CS và Mỹ ít có điều kiện để thực hiện. Mình cũng đã so sánh với các nguồn từ CS và Mỹ thì thấy nhận định của ông Sơn không hề cường điệu, thiện lệch, ngoại trừ con số thống kê thì khó kiểm soát.

Phân tích từ cá nhân mình sẽ ở phần tiếp theo.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

Post Bottom Ad