Đảo và máu
Đêm 11/3/1988, tàu HQ 604 vượt sóng ra khơi. Bản tin dự báo thời tiết cho thấy biển động, có gió mạnh. Trên tàu chủ yếu là lính công binh đi làm nhiệm vụ. Chiều 13/3, tàu ra đến đảo. Thiếu úy Trần Văn Phương, Phó chỉ huy trưởng đảo Gạc Ma (thuộc cụm đảo Sinh Tồn – quần đảo Trường Sa), cắm cờ Tổ quốc trên đảo. “Lúc đó, tàu Trung Quốc vẫn chưa có động tĩnh gì, chỉ lặng lẽ bám theo”, ông Nguyễn Văn Lanh kể lại.
“Chuyến đó đi ai cũng biết sẽ gặp nguy hiểm. Bởi vì, từ cuối năm 1987, một vài cuộc đụng độ, tranh chấp đã xảy ra. Tình hình đã bắt đầu nóng lên, Trung Quốc kéo xuống ngày càng đông”, cựu binh Nguyễn Hữu Thảo chia sẻ.
Gạc Ma là một rạn đá ngầm được bao quanh bởi vành đai san hô trắng. Khi nước triều xuống, hòn đảo như một vệt đá trải dài giữa biển. Rạng sáng ngày 14/3, ba tàu Trung Quốc đến đòi phía Việt Nam hạ cờ. “Không, dĩ nhiên mình không hạ”, mọi người đều nói.
“Đồng chí nào biết bơi, bơi ngay vào đảo hỗ trợ các đồng chí trên đảo bảo vệ cờ”, mệnh lệnh của chỉ huy cụm đảo Trần Đức Thông được truyền đi ngay lập tức. Nguyễn Văn Lanh cùng 11 đồng đội nhảy xuống biển rồi bơi vào đảo.
“Lúc đó, quân Trung Quốc tràn lên dàn hàng ngang, lính công binh chỉ có cuốc chim và xẻng, phía bên kia là AK và lưỡi lê. Tình thế giáp lá cà lúc đó, chúng tôi vẫn không nghĩ rằng Trung Quốc sẽ bắn vào mình”, ông Lanh nói.
Nhưng phía Trung Quốc đã bắn. Ông Lanh có lẽ không bao giờ quên giây phút từng làn đạn cắm vào đầu đồng đội Nguyễn Văn Phương, người đang giữ lá cờ đỏ sao vàng giữa đảo. “Cho đến giờ những lời cuối cùng của Phương trong buổi sáng hôm ấy vẫn còn vẳng bên tai. Phương nói: Tất cả chúng mình quyết giữ lấy hòn đảo này, dù có phải hy sinh, máu chúng mình sẽ tô thắm lá cờ Việt Nam”.
Chiến sĩ Nguyễn Văn Phương ngã xuống, Nguyễn Văn Lanh đứng cạnh tiếp tục lãnh nhiệm vụ giữ cờ. Trên đảo Gạc Ma buổi sáng ngày 14/3 hôm đó, cuộc chiến đấu giữa cuốc chim và lưỡi lê, giữa xẻng và AK vẫn tiếp tục. Không ai có ý định lùi bước.
Nguyễn Văn Lanh bị lưỡi lê đâm xuyên bả vai, mũi súng hướng vào ngực nổ rát nhưng bàn tay vẫn giữ chặt lá cờ đỏ thấm máu và nước biển mặn. Những động đội khác lao vào, tiếp tục trân mình giữa làn đạn, giương cao lá cờ Tổ quốc. Vòng tròn bất khuất ấy, hàng chục năm sau vẫn làm nhức nhối trái tim người Việt.
Mãi sau này, Nguyễn Văn Lanh mới biết rằng trong trận chiến đẫm máu hôm đó, đồng đội đưa Lanh lên một tấm ván, rồi đưa lên tàu về đảo Sinh Tồn. Từ đảo Sinh Tồn, trực thăng đưa Nguyễn Văn Lanh về bệnh viện ở đất liền. 3 năm tiếp theo, Nguyễn Văn Lanh trải qua nhiều cuộc điều trị từ các bệnh viện trong Nam, ngoài Bắc.
Khác với nhiều đồng đội, Nguyễn Văn Lanh tiếp tục theo nghiệp hải quân cho đến ngày về hưu năm 2017. Ông Lanh luôn tự nhận mình là người may mắn sống sót. Những đồng đội khác đã vĩnh viễn nằm lại biển khơi mà ước vọng quy tập hài cốt của thân nhân gia đình mãi mãi chỉ là ước vọng.
Người yêu ở quê nhà Quảng Bình của Nguyễn Văn Lanh nhận được thư đúng vào ngày bản tin trên Đài Tiếng nói Việt Nam phát đi thông tin những người lính trên tàu 604 đã hy sinh trong trận chiến Gạc Ma.
Giữ Cô Lin và Len Đao
Sau khi tàu HQ 604 bị bắn chìm, những người còn sống, người bị thương cố bơi về phía tàu HQ 505 của thuyền trưởng Vũ Huy Lễ. 9 người bị Trung Quốc bắt giữ, 64 người hy sinh, nhiều người khác bị thương trong cuộc thảm sát đẫm máu ngày 14/3.
Nhưng không chỉ dừng lại ở đó, 3 tàu chiến Trung Quốc liên tục nã pháo vào HQ 505. Tàu của thuyền trưởng Vũ Huy Lễ bị trúng đạn vào buồng máy bên phải, hỏng máy trôi ra xa đảo Cô Lin gần 1 hải lý. Các khoang máy đều bốc cháy dữ dội, điện tắt tối om, nước tràn, dầu lênh láng. Những người sống sót sau cuộc thảm sát đứng trước một nguy cơ mới: tàu có thể bị chìm xuống mực nước 1.000 m.
Trong thời khắc sinh tử đó, ông Lễ quyết định bằng mọi giá phải giữ được tàu. Khi tàu vừa được sửa, HQ 505 hướng về đảo Cô Lin. Gần đến đảo, thuyền trưởng hạ lệnh mở hết tốc lực, cho tàu phi thẳng. Lúc này tàu HQ 505 nằm gác 1/3 thân trên đảo và trở thành pháo đài kiên cố giữ đảo. Họ đã bám trụ ở đó cho đến tháng 6/1988 khi Trung Quốc từ bỏ các hành động khiêu khích.
Quyết định dùng chính con tàu dài gần 100 m, rộng 38 m làm pháo đài giữ đảo Cô Lin sau này được đánh giá là trọng đại, táo bạo và chính xác của thuyền trưởng Vũ Huy Lễ. Năm 1989, Tập thể tàu HQ 505 và thuyền trưởng Lễ được Nhà nước phong tặng danh hiệu Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân. Nhiều chiến sĩ khác được thưởng huân chương chiến công các hạng.
Và đối với thuyền trưởng con tàu anh hùng HQ 505, hàng chục năm qua, Gạc Ma vẫn như một vết dằm đau nhói trong tim. “Chúng tôi muốn các thế hệ mai sau không bao giờ quên ngày 14/3/1988, không bao giờ quên những người đã ngã xuống vì quê hương, không bao giờ quên Gạc Ma, một phần máu thịt của Tổ quốc”, thuyền trưởng Vũ Huy Lễ nói.
Chỉ ước được trở về Tổ Quốc
Trong buổi sáng định mệnh đó, ông Nguyễn Văn Thống (quê Bố Trạch, Quảng Bình) đang làm nhiệm vụ trên tàu HQ 604. Tàu bị Trung Quốc bắn chìm, ông Thống bị thương ở một bên mắt, ở tay và ở chân nhưng vẫn cố bám lấy miếng gỗ.
“Cứ thế, tôi cứ trôi trên biến từ sáng đến chiều. Giữa biển khơi mênh mông, tôi nghĩ trước sau gì mình cũng chết. Lúc đó chỉ ước ai đưa lên khỏi mặt biển, có chết cũng cam lòng”, ông Thống nhớ lại.
Giải thích về ý nghĩ có phần kỳ lạ đó của mình, ông Thống bảo vì xưa kia, người đi biển luôn kể về những con cá mập hung dữ. Lúc đó, một mình lênh đênh với miếng ván gỗ, nghĩ thà chết ngay sau một phát súng còn hơn bị cá mập kéo đi. “Giờ sống dở thế này, bị cá kéo đi thì chết oan ức quá”, ông Thống rưng rưng.
Đến chiều ngày 14/3, tàu Trung Quốc bắt được Nguyễn Văn Thống, khi đó gần như bất tỉnh, tay vẫn bám chặt vào miếng ván gỗ. Khi tỉnh dậy, ông Thống đã thấy mình nằm trong bệnh viện. Một người lính phiên dịch cho ông biết đó là một bệnh viện Trung Quốc.
Sau mấy tháng điều trị, ông Thống hội ngộ với 8 đồng đội của mình trong nhà tù. Cứ hai người bị giam chung một phòng, cơm được mang đến phòng giam. “Sau một năm, khi có tổ chức nhân đạo quốc tế đến thăm, chúng tôi mới được ra ngoài, đi xuống nhà ăn”, ông Thống kể.
Nhưng trong suốt hơn 1.200 ngày trong nhà tù Trung Quốc, những người lính Gạc Ma chỉ đau đáu ước mong trở về Tổ quốc. Họ chỉ biết về lệnh trao trả trước hai ngày. “Anh em mừng lắm. Đêm đó chúng tôi không ngủ, chỉ mong trời sáng để trở về”, ông Thống kể. Đó là ngày 29/8/1991. Ông Thống cũng như 8 đồng đội của mình không hề biết rằng ở quê nhà cha mẹ và người thân đã nhận được giấy báo tử.
Cùng thời điểm đó, Nguyễn Văn Lanh trải qua 3 năm ròng rã khắp các bệnh viện quân y và dân sự để điều trị vết thương. Sức khoẻ tổn hại đến 71%, cánh tay phải mất cảm giác và không thể hoạt động được.
Đêm nằm mơ thấy Gạc Ma
30 năm đã qua, Gạc Ma vẫn là nỗi đau đáu đối với những người còn sống. Chuẩn đô đốc Lê Kế Lâm nói: “Trận Gạc Ma theo tôi không phải là một trận hải chiến. Hải quân Việt Nam có bắn lại hải quân Trung Quốc phát súng nào đâu. Mà Việt Nam lên đảo trước vào ban đêm. Đến sáng hôm sau Trung Quốc mới lên. Thấy người lính Việt Nam cắm cờ rồi đến nhổ cờ đi, một bên bảo vệ cờ, một bên nhổ cờ”.
“Tôi gọi trận Gạc Ma là một trận thảm sát của hải quân Trung Quốc với hải quân Việt Nam. Có thể do họ manh động cho nên gây vụ thảm sát này. Vụ Gạc Ma phải nói thẳng cho thế giới biết rằng đó là một cuộc thảm sát. Không có một trận hải chiến nào ở đây cả”, chuẩn đô đốc Lê Kế Lâm khẳng định.
Gạc Ma hiện bị Trung Quốc chiếm đóng. Ảnh: CSIS/ AMTI
Còn với riêng ông Nguyễn Văn Lanh, ông nói suốt 30 năm qua, cứ đêm 13/3, những giấc mơ đưa ông trở về với đồng đội, với Gạc Ma. “Chúng tôi trở về với tuổi đôi mươi, chia nhau điếu thuốc lá cuốn, cùng nhau đi kiếm củi về nấu cơm. Đứa nào ốm thì thay nhau lên nhà bếp xin tý gạo nấu riêng, còn mình ăn gì cũng được”.
Cho đến bây giờ, ước vọng trở lại Gạc Ma, thả cho đồng đội một vòng qua tưởng niệm vẫn luôn đau đáu trong lòng ông Lanh. Chuyến đi biển nhiều ngày để trở về Gạc Ma quá sức đối với cơ thể luôn phải chịu những cơn đau hành hạ do di chứng của thương tích. Có những đồng đội của ông ngã xuống khi chưa kịp nắm tay một người bạn gái, cũng không để lại một bức ảnh cho người thân.
Nhưng trên hết, đó vẫn là nỗi đau khi phải nhìn Gạc Ma từ cách xa. “Tôi nghĩ nhiều lắm chứ. Gạc Ma vẫn do Trung Quốc xâm chiếm dù cho đó là đảo của mình, đất của mình. Đó là sự mất mát quá lớn”, ông Lanh trầm ngâm.
Cùng nỗi niềm đó, ông Lê Hữu Thảo luôn mong ngóng ngày tàu HQ 604 được trục vớt để tìm lại hài cốt đồng đội đang bị chôn vùi giữa biển khơi. “Mong ước của tôi là đưa các anh về đất liền mai táng. Nếu có cơ hội nào đó, tôi cũng mong được trở lại chiến trường xưa để thả một vòng hoa tưởng niệm cho đồng đội của mình”.
Đồ họa: Như Ý
Hà Hương
Zing
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét