64 năm “đi đâu loanh quanh cho đời mõi mệt”. Thề “còn cái lai quần” cũng đánh Mỹ, rốt cục phải trở lại thời điểm ban đầu. Hai nước hai bờ đông tây Thái Bình dương, định mạng sắp đặt người Mỹ phải là bạn của dân tộc Việt Nam.
Tất cả những nước Châu Á có quan hệ “đồng minh” với Mỹ, không ngoại lệ, nếu không là những nước phát triển ở tầm cao, thì cũng là những “cường quốc”. Đặc biệt các quốc gia Nam Hàn, Nhật… là những nước “có lính Mỹ” hiện diện thường trực.
Lịch sử thế giới cho thấy có nhiều bài học về sự thành công của “hội nhập – intégration”. Đầu tiên có thể nói là nước Nhật dưới triều Minh Trị. Việc “hội nhập” thời đó bằng “cưỡng bức”. Trước “những chiếc tàu nhả khói đen, đi ngược gió, với những họng súng đen ngòm chỉa vào bờ” đầy đe dọa, vua quan nước Nhật quyết định “mở cửa” để học hỏi văn minh Tây phương. Những chiếc tàu “đen” đó thuộc hải quân Mỹ.
Cùng thời kỳ Trung Hoa và Việt Nam cương quyết “bế quan tỏa cảng”. Rốt cục VN bị rơi vào ách thuộc địa, TQ bị “liệt cường phân xé”.
Nhờ “hội nhập”, từ một quốc gia tương đương với VN thời Tự Đức, nước Nhật đã học hỏi những kiến thức tổng quát của Tây phương, như về khoa học, triết học. Không bao lâu nước Nhật được “kỹ nghệ hóa”, sau đó khẳng định vị thế “đại cường” qua các chiến thắng (thắng hải quân Trung hoa 1895 và Nga 1905). Sự phát triển (do hội nhập) của Nhật đến mức “thần kỳ”, nước này nảy sinh tham vọng “bá chủ Á Châu”. Đế quốc Nhật bị “sụp đổ” qua sự thất bại trong Thế chiến thứ II.
Nước Nhật cũng là một thí dụ điển hình khác về sự thành công trong “hội nhập”, sau khi thua trận. Đất nước kiệt quệ vì nỗ lực cho chiến tranh, hai thành phố lớn Nagasaki và Hiroshima tan nát vì bom nguyên tử. Nhưng cũng nhờ “hội nhập”, dưới “cây dù” kinh tế và quốc phòng của Mỹ mà chỉ 25 năm sau, nước Nhật trở lại sân khấu quốc tế với tư cách “cường quốc kinh tế”.
Bài học “hội nhập” thành công khác là Trung quốc thời Đặng Tiểu Bình. Cũng nhờ “đi” với mước Mỹ, TQ vừa được tư bản Mỹ đầu tư, vừa học hỏi được những “kiến thức” về khoa học kỹ thuật, TQ trong ba thập niên đã khẳng định vị thế “đại cường”.
Ta còn có nhiều thí dụ về “hội nhập” thành công, như Ba Lan vào khối Châu u sau khi khối cộng sản sụp đổ.
Nhưng Việt Nam là một trường hợp điển hình cho sự thất bại của “hội nhập”.
Việt Nam “đổi mới”, cách nói khác của “hội nhập” vào “thế giới tư bản”, nhưng với tư thế “chân trong chân ngoài”.
Việt Nam “đổi mới” trong tư thế “kẻ thù cũ” của Mỹ và TQ.
Đối với TQ, Việt Nam phải quan hệ trong tư thế “khúm núm” vì đã mang tiếng phản bội, “ăn cháo đá bát”. Để được “bình thường hóa bang giao” với TQ, VN đã nhượng bộ nhiều thứ, đến đỗi ông Nguyễn Cơ Thạch, nguyên bộ trưởng bộ Ngoại giao cùng thời, đã than rằng “thời kỳ Bắc thuộc mới đã bắt đầu”.
Với một “tư thế” ngoại giao hèn kém như vậy, lại còn bị thế “địa chiến lược” áp đặt, TQ không bao giờ cho phép một quốc gia Việt Nam giàu mạnh, có thể cạnh tranh, hay cản trở, với bất kỳ ý đồ nào đó của TQ.
Đối với Mỹ, rõ ràng VN “hội nhập” chân trong chân ngoài. Biết bao đời tổng thống Mỹ, từ Clinton đến Obama, phía Mỹ đã “lẫy Kiều” không biết bao nhiêu lần để cho biết Mỹ đã không còn gì khúc mắc (hay cay cú) với VN nữa (mặc dầu Mỹ thua trận chiến tranh VN). Nhưng VN đối với Mỹ vẫn còn nguyên tấm lòng “nghi kỵ”, vừa do khác biệt về “thể chế chính trị”, cho tới việc không chia sẻ các giá trị phổ cập về tự do cá nhân (tức về nhân quyền).
Biết bao nhiêu quốc gia “hội nhập” đều thành công. Ngoại lệ Việt Nam. VN “dò đá qua sông” nhưng nguyên nhân không thể chối cãi là do các yếu tố “nội tại”, từ “chính trị” cho tới “chế độ”, chớ không phải là các vấn đề ngoại tại (như do các thế lực thù địch v.v…). Đến bây giờ nhìn lại, VN vẫn đang ở giữa giòng sông, không biết là phải qua sông hay trở lại cố thủ trong “thành trì xã hội chủ nghĩa do TQ lãnh đạo”.
Nếu tính từ sau chiến tranh với Pháp, 1954, đến nay 64 năm. Đảng CSVN đã làm tổn hao của đất nước số vốn thời gian là 64 năm. Chưa kể vốn liếng do máu xương 4 triệu con người. Chưa kể vốn liếng là tài nguyên quốc gia, là lãnh thổ, chủ quyền biển, đảo…
Thông điệp của bản nhạc “Nối vòng tay lớn” thật là mạnh mẽ, lãnh đạo CSVN không thể không biết.
VN không có cách nào khác là phải “hội nhập” thực sự, bước vào “sân chơi quốc tế” bằng “hai chân” (chớ không có chân trong chân ngoài hay kiểu dò đá qua sông). Thời gian là vốn liếng quí giá nhứt.
“Đi” với Mỹ VN được nhiều cái lợi. Hãy nhìn Nam Hàn, Nhật… để có nhận định đúng đắn.
Từ lâu tôi có nói rằng việc “quốc tế hóa tranh chấp Biển Đông” sẽ chỉ thất bại, vì mấu chốt của tranh chấp là “chủ quyền”.
Các yêu sách vùng biển của các bên (như đường chữ U – còn gọi là đường lưỡi bò – của TQ) phát sinh từ tranh chấp chủ quyền. Giải quyết các yêu sách đối kháng về biển bằng cách “quốc tế hóa” là sai vấn đề.
(Cần lưu ý với bạn đọc ý nghĩa của từ “quốc tế hóa”. Ý nghĩa này tôi đã đề cập nhiều lần. Nhiều người lẫn lộn giữa “quốc tế hóa – internationalisation” với việc “hội nhập – intégration”).
VN phải “khẳng định chủ quyền” trước, thuyết phục được dư luận quốc tế chủ quyền của VN tại HS và TS. Sau đó mới có thể “quốc tế hóa tranh chấp” bằng cách đưa ra một trọng tài quốc tế để phân xử.
VN hôm nay vừa “tiếp nối” VNDCCH, lại vừa (tự nhận) là “kế thừa” di sản của VNCH. Ngay cả khi việc “kế thừa” VNCH được nhìn nhận thì VN không thể cùng lúc “kế thừa” hai lập trường “đối nghịch” về chủ quyền ở HS và TS.
Tức là, trên phương diện chủ quyền lãnh thổ ở HS và TS, vấn đề “hòa giải quốc gia” là việc đầu tiên phải làm. Sau đó là “nối vòng tay lớn” với Mỹ.
Nếu cứ theo đà “dò đá qua sông” như hiện nay, hội nhập với tư thế “chân trong chân ngoài”, kiểu “kinh tế thị trường định hướng XHCN”, VN sẽ ngày càng tụt hậu trong nghèo đói.
Lúc đó độc lập, tự chủ không còn, nói gì tới chủ quyền biển đảo.
Trương Nhân Tuấn
FB Trương Nhân Tuấn
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét